Bản án 21/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ THỌ - TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 21/2020/HS-ST NGÀY 21/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2020/QĐXXST- HS ngày 07 tháng 5 năm 2020 đối với bị cáo:

Dương Hồng P - sinh ngày 18 tháng 9 năm 1978 tại thị xã P, tỉnh Phú Thọ; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Khu 1, xã H, thị xã P, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Hồng H (đã chết) và bà Vũ Thị Soạn - sinh năm 1956; bị cáo có vợ là Vũ Thị Thu H - sinh năm 1987 và 01 con sinh năm 2012; tiền sự: Không; tiền án:

Bản án số 13/HS-ST ngày 27/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Lào Cai xử phạt 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, ra trại ngày 14/10/2019; nhân thân: Ngày 27/7/2006, Chủ tịch UBND quận B, thành phố Hà Nội ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng tại trung tâm giáo dục lao động Hà Nội, chấp hành xong ngày 21/7/2008;

Ngày 28/7/2009 bị Toà án nhân dân thị xã P xử 27 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Ngày 25/9/2009 Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xử phúc thẩm tuyên giữ nguyên bản án của TAND thị xã P; Ngày 06/4/2012 bị Công an phường A, thị xã P xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý với mức phạt 750.000 đồng, đã chấp hành xong hình phạt;

Ngày 12/4/2012 Chủ tịch UBND thị xã P ra quyết định đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 24 tháng tại trung tâm giáo dục lao động xã hội Đoan Hùng, P chấp hành xong ngày 30/4/2014; bản án số 46/2016/HSST ngày 25/02/2016 của Tòa án nhân dân quận D, thành phố Hà Nội tuyên miễn trách nhiệm hình sự đối với Dương Hồng P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bản án số 446/2026/HSPT ngày 19/5/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với Dương Hồng P. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16/01/2020, chuyển tạm giam ngày 22/01/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Phú Thọ. (Có mặt).

+Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đức V - sinh năm 1987.

Trú tại: Khu 2, xã P, huyện C, tỉnh Phú Thọ. (Vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ ngày 16/01/2020, tổ Công tác của đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thị xã P phối hợp với Công an phường P, thị xã P đang làm nhiệm vụ tại khu vực tại khu vực Ga P, thuộc phố P, phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ phát hiện một nam thanh niên có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu kiểm tra. Tại chỗ, nam thanh niên tự nguyện giao nộp gói nilon màu hồng bên trong có 01 gói giấy mặt ngoài nhiều màu có in chữ và số, mở ra mặt trong màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng. Thanh niên khai nhận tên là Dương Hồng P đang cất giữ gói nilon trên chứa ma tuý để sử dụng cho bản thân, nguồn gốc số ma tuý đó P đã mua của Nguyễn Đức V. Tổ công tác đã cho gói ma túy thu giữ của P vào 01 P bì dán kín lại, yêu cầu P cùng các thành phần tham gia ký tên lên bì giấy. Ngoài ra tổ công tác còn thu giữ của P 02 chiếc xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc chưa qua sử dụng; 01 ống Novocain chưa qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số Seri: 4573802511273, kèm theo 01 thẻ sim số 0358730076.

Cùng ngày 16/01/2020, Công an thị xã Phú Thọ đã tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Dương Hồng P tại khu 1, xã Hà Lộc, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ nhưng không thu giữ đồ vật, tài liệu gì; khám xét khẩn cấp chỗ ở của V tại khu 2, xã Ph, huyện C, tỉnh Phú Thọ thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, số IMEI 1: 352872/05/420198/9, số IMEI 2: 352872/05/420199/7, kèm theo 01 thẻ sim số 0961991141.

Cơ quan cảnh sát điều tra- Công an thị xã P đã ra Quyết định trưng cầu giám định gói chất bột cục màu trắng thu giữ của Dương Hồng P. Tại bản kết luận giám định số 175/KLGĐ ngày 19/01/2020, Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “mẫu chất bột cục màu trắng trong phong bì niêm phong gửi đến giám định là ma tuý, có khối lượng 0,228 gam,loại Heroine.

* Heroine: số thứ tự 9, Danh mục I, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ.

Kèm theo kết luận giám định: Biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định; Biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định.

Hoàn lại đối tượng giám định: Hoàn trả lại 0,118 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm phong, dán kín trong một bì giấy, bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, P khai nhận: Do bản thân đang điều trị cai nghiện bằng Methadone tại trung tâm y tế thị xã P nên P có gặp và quen biết với Nguyễn Đức V. Khoảng 07 giờ ngày 16/01/2020 do có nhu cầu sử dụng ma túy heroine nên đã P dùng số điện thoại 0358730078 gọi đến số điện thoại 0961991141 của V và hỏi mua 400.000 đồng (bốn trăm nghìn đồng) ma túy heroin. V đồng ý và hẹn gặp P ở cổng trung tâm y tế thị xã P. Đến khoảng hơn 8 giờ cùng ngày P gặp V ở cổng trung tâm y tế thị xã P. Tại đây P đưa cho V 400.000 đồng, V cầm tiền rồi bảo P đứng đợi, còn V đi đâu P không biết. Khoảng 20 phút sau V gọi điện lại và bảo P ra khu vực ga thị xã Phú Thọ, P đi một mình ra gặp V ở ga thị xã P, tại đây V đưa cho P 01 gói nilon màu hồng, P biết đó là gói ma túy heroin nên cầm trong tay trái, còn V đi đâu P không rõ. Khi P đang cầm gói ma túy trong tay đi tìm nơi sử dụng ma túy thì bị tổ công tác của Công an thị xã P kiểm tra phát hiện như trên. Tiến hành đối chất giữa P và V thì V thừa nhận có liên lạc qua điện thoại với P nhưng không để trao đổi mua bán ma túy như P đã khai nhận. Do vậy, không có đủ căn cứ để xử lý đối với Nguyễn Đức V. Vì vậy, buộc Dương Hồng P phải chịu trách nhiệm về hành vi tàng trữ trái phép 0,228 gam ma túy Heroine ngày 16/01/2020 như đã nêu trên.

Ngày 21/01/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an thị xã P đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ra lệnh tạm giam đối với Dương Hồng P về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Dương Hồng P khai nhận: Bị cáo và V là bạn bè xã hội, không mâu thuẫn gì. Ngày 16/01/2020, V có bán cho bị cáo ma túy Heroin để sử dụng cho bản thân. Bị cáo chưa kịp sử dụng thì bị Công an kiểm tra thu giữ như nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo. Việc mua bán ma túy giữa V và bị cáo không có ai biết và không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo bị thu giữ ma túy, điện thoại di động, 02 xi lanh nhựa và 01 ống thuốc Novocain. Bị cáo lao động tự do, thu nhập thấp, sống cùng gia đình không có tài sản gì. Bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng nhiều bằng khen.

Bản cáo trạng số 22/CT-VKS-TXPT ngày 01/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã P truy tố bị cáo Dương Hồng P về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố không có lời tranh luận và bào chữa nào khác. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Dương Hồng P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52; khoản 1 điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Dương Hồng P từ 24 tháng đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 16/01/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

-Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự; khoản 1; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu của bị cáo Dương Hồng P 01 bì niêm phong số 175/KLGĐ ngày 19/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ gồm: 0,118 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm P, dán kín trong một bì giấy, bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán; 02 chiếc xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc chưa qua sử dụng và 01 ống Novocain chưa qua sử dụng để tiêu hủy;

Trả lại cho: bị cáo Dương Hồng P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0358730076; anh Nguyễn Đức V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0961991141.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo ân hận về hành vi mà bị cáo đã phạm, mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2].Đánh giá các chứng cứ buộc tội đối với bị cáo:

Hồi 09 giờ ngày 16/01/2020, tại khu vực Ga Phú Thọ, thuộc phố P, phường P, thị xã P, tỉnh Phú Thọ bị cáo Dương Hồng P đã bị Cơ quan Cánh sát điều tra - Công an thị xã P bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép trên người 0,228 gam ma túy Heroine để sử dụng cho bản thân. Lời nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người chứng kiến, phù hợp với thời gian, địa điểm xảy ra vụ án, kết luận trưng cầu giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy, có đủ căn cứ pháp lý kết luận bị cáo Dương Hồng P phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã P truy tố bị cáo về tội danh cũng như điều luật là hoàn toàn đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

…c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;…” Quá trình điều tra đã tiến hành đấu tranh, lấy lời khai, đối chất giữa bị cáo và Nguyễn Đức V nhưng không có đủ căn cứ để xác định V đã bán ma túy cho bị cáo như bị cáo đã khai nhận nên Cơ quan điều tra đã giáo dục, răn đe phòng ngừa đối với V là phù hợp.

[3].Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ nên cần phải được xử lý nghiêm. Bị cáo là thanh niên, có sức khỏe, hiểu biết xã hội nhưng là người có nhân thân xấu đã bị xét xử và giáo dục nhiều lần nhưng chưa từ bỏ được ma túy, không chịu lao động, làm ăn lương thiện, rèn luyện bản thân mà lại lao vào con đường nghiện ma túy rồi dẫn đến có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng cho bản thân.Vì vậy, bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi đã gây ra, cần áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có đủ điều kiện giáo dục bị cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội. Song khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, bố bị cáo là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương kháng chiến được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và bị cáo cũng phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự.

Xét về nhân thân, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: cần áp dụng hình phạt đối với bị cáo như Viện kiểm sát nhân dân thị xã P đề nghị là phù hợp. Mức án đó cũng đủ điều kiện để giáo dục bị cáo sửa chữa được tội lỗi mà bị cáo đã phạm.

[4].Về hình phạt bổ sung:

Tại khoản 5 điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét thấy, bị cáo lao động tự do, thu nhập thấp, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật.

[5].Về vật chứng:

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã P thu giữ và chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự thị xã P gồm: 01 bì niêm phong số 175/KLGĐ ngày 19/01/2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy; 02 chiếc xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc chưa qua sử dụng và 01 ống Novocain chưa qua sử dụng thu giữ của bị cáo là đồ vật dùng để sử dụng ma túy không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Còn 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0358730076 thu giữ của bị cáo và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0961991141 thu giữ của anh V, đây là điện thoại dùng liên lạc hàng ngày cá nhân không liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo và anh V là phù hợp quy định của pháp luật.

[6].Về án phí: Bị cáo Dương Hồng P phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 và điểm h khoản 1 điều 52; khoản 1 điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Bị cáo Dương Hồng P phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”; phạt Dương Hồng P 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 16/01/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

-Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 điều 47 Bộ luật hình sự;

khoản 1; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu của bị cáo Dương Hồng P 01 bì niêm phong số 175/KLGĐ ngày 19/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ gồm: 0,118 gam chất bột cục màu trắng cùng toàn bộ bao gói gửi đến giám định được niêm P, dán kín trong một bì giấy, bên ngoài được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán; 02 chiếc xi lanh nhựa màu trắng loại 3ml/cc chưa qua sử dụng và 01 ống Novocain chưa qua sử dụng để tiêu hủy;

Trả lại cho: bị cáo Dương Hồng P 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0358730076; anh Nguyễn Đức V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, màu đen, đã qua sử dụng, kèm theo 01 thẻ sim số 0961991141.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự thị xã P, tỉnh Phú Thọ ngày 01/4/2020).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Dương Hồng P phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt có quyền kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày giao hoặc niêm yết bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2020/HS-ST ngày 21/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Thọ - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về