TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 21/2020/DS-PT NGÀY 15/12/2020 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
Ngày 15 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 18/2020/TLPT-DS ngày 12 tháng 10 năm 2020 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.
Do bản án sơ thẩm số 25/2020/DS-ST ngày 26/08/2020 của Toà án nhân dân huyện Minh Hóa bị kháng cáo.
Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 1858/2020/QĐ-PT ngày 01 tháng 12 năm 2020 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Ông Cao Văn Q, sinh năm: 1954 Bà Đinh Thị C, sinh năm: 1956 Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình.
Ông Q, bà C uỷ quyền cho anh Cao H, trú tại thôn Q, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình, theo giấy uỷ quyền ngày 06/10/2020. Ông Q, anh H có mặt tại phiên toà. Bà C vắng mặt.
2. Bị đơn:Ông Đinh Xuân C, sinh năm: 1958 Địa chỉ: Thôn Q, xã H, huyện M, tỉnh Quảng Bình, có mặt.
3. Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
- Ủy ban nhân dân huyện M, tỉnh Quảng Bình.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Bắc V; Chức vụ: Chủ tịch UBND huyện M.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Đinh Minh T; Chức vụ: Trưởng phòng Tài nguyên môi trường huyện M, có mặt.
UBND xã H do anh Nguyễn Xuân T, Công chức địa chính được chủ tịch UBND xã H uỷ quyền tham gia phiên toà. Anh Tình có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Phía nguyên đơn, ông Cao Văn Q trình bày: Gia đình ông được Nhà nước giao đất vào năm 2008 đối với thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38 địa chỉ thửa đất khu Cây Đèn, thôn Q, xã H với diện tích 9.323m2, có 3.113m2 đất thuộc hành lang bảo vệ an toàn giao thông. Mục đích sử dụng là đất rừng sản xuất.
Sau khi được giao đất, gia đình có trồng keo nhưng chưa hết diện tích. Năm 2019, gia đình ông phát hiện các hộ gia đình ông Cao T, ông Cao Ngọc L, ông Đinh Xuân C đã lấn chiếm và sử dụng khoảng 6.000m2 đất của ông. Cụ thể ông C sử dụng khoảng 800m2, gia đình ông yêu cầu ông Đinh Xuân C trả lại diện tích đất nhưng ông C không chấp nhận. Ủy ban nhân dân xã H đã hòa giải nhưng không đạt kết quả nên ông đã làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết buộc ông C trả lại diện tích 800m2 để gia đình ông sử dụng.
Phía bị đơn ông Đinh Xuân C trình bày: Ông có mảnh đất khai hoang từ năm 1986 đến nay đã hơn 30 năm nhưng đến năm 2019 Ủy ban nhân dân xã H mời đến giải quyết ông mới biết ông Cao Văn Q làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên mảnh đất của ông. Trên phần đất ông đang sử dụng có một phần đất hành lang giao thông. Ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Ủy ban nhân dân huyện Minh Hoá tại Công văn số 21 ngày 19/3/2020 nêu ý kiến: Từ năm 2000, được sử hỗ trợ của Dự án lương thực, UBND huyện M đã tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp cho các hộ dân. Theo đó, năm 2002, gia đình ông Quảng được cấp 21.600m2 đất thuộc Lô 8, khoảnh 5, Tiểu khu 78 tại khu vực Lèn Ông Ngoi. Năm 2008, sau khi thực hiện đo vẻ lại bản đồ địa chính theo hệ toạ độ VN 2000, UBND xã tiến hành cấp đổi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho phù hợp với hệ thống bản đồ mới. Ông Q được cấp đổi diện tích tại thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38, tiểu khu: Ngoài tiểu khu diện tích 9.323m2. Mục đích sử dụng: đất trồng rừng, thuộc khu vực Cây Đèn, và có 02 lô đất thuộc khu vực lèn Ông Ngoi. Việc cấp đất trồng rừng tại khu vực Cây Đèn không trùng với khu vực vị trí thửa đất được cấp lần đầu năm 2000.
Ngày 05/6/2020 Tòa án đã thành lập Hội đồng xem xét thẩm định tại chỗ thửa đất tranh chấp. Hội đồng đã sử dụng máy định vị GPS để xác định các tọa độ vùng đất tranh chấp.
Kết quả như sau: Cụ thể các tọa độ 1: X=495062 ; Y=1976287 2: X=495044 ; Y=1976276 3: X=495031 ; Y=1976293 4: X=495016 ; Y=1976295 5: X=495017 ; Y=1976299 6: X=495040 ; Y=1976315 có diện tích là 783m2 thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38 đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Cao Văn Q và bà Đinh Thị C.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 25/2020/DS-ST ngày 26/8/2020 của Toà án nhân dân huyện Minh Hoá đã Quyết định:
1. Tuyên bố: Chấp nhận đơn khởi kiện “Tranh chấp quyền sử dụng đất” của ông Cao Văn Q và bà Đinh Thị C đối với ông Đinh Xuân C.
Căn cứ Điều 166, Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 135, Điều 202, điều 203 Luật đất đai năm 2013 buộc ông Đinh Xuân C trả lại cho ông Cao Văn Q và bà Đinh Thị C số diện tích đã lấn chiếm trồng keo là 783m2 có sơ đồ kèm theo, có tứ cận như sau:
+ Phía Bắc giáp đất ông Cao Văn Q đang sử dụng từ điểm 1 đến điểm 6 dài 18,61m;
+ Phía Nam giáp đất nông nghiệp từ điểm 2 đến điểm 4 dài 35,73m;
+ Phía Đông giáp đất ông Cao Ngọc L đang sử dụng từ điểm 1 đến điểm 2 là 21,11m;
+ Phía Tây giáp đất sản xuất ông Cao Văn Q đang sử dụng từ điểm 5 đến điểm 6 dài 31,23m.
Toàn bộ diện tích 783m2 thuộc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38 được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Cao Văn Q và bà Đinh Thị C số AN635977 cấp ngày 21/11/2008.
2. Về tài sản trên đất: Ông Cao Văn Q và bà Đinh Thị C được sở hữu số cây keo trên diện tích 783m2 và có nghĩa vụ trả lại cho ông Đinh Xuân C số tiền 3.054.000 đồng.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về chi phí thẩm định, định giá tài sản, án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự.
Ngày 03 tháng 9 năm 2020 bị đơn ông Đinh Xuân C có đơn kháng cáo nội dung yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Q vì nguồn gốc thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38 gia đình ông sử dụng từ năm 1986 liên tục đến nay, đã trồng keo được 03 đợt và có nhiều người trong thôn làm chứng đất ông Q chỉ được 01 phần nhỏ chưa được cấp đất.
Tại phiên tòa phúc thẩm các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, bị đơn vẫn giữ nguyên kháng cáo yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Q. Đại diện UBND huyện M có ý kiến mặc dù hồ sơ năm 2008 ghi cấp đổi nhưng trên thực tế đối với ông Q chỉ cấp đổi hai thửa đất tại Lèn Ông Ngoi còn thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38 tại khu vực Cây Đèn là cấp mới, không phải cấp đổi. Hồ sơ chỉ sai về mẫu đơn xin cấp đổi, còn các trình tự thủ tục khác được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Bình phát biểu quan điểm:
+ Về tố tụng: Trong quá trình tiến hành tố tụng, giải quyết vụ án người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự
+ Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo sửa án sơ thẩm, không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Cao Văn Q tại thửa 27, tờ bản đồ số 38 tại xã H, huyện M vì thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng quy định (cấp trên phần đất gia đình ông C đã sử dụng từ trước), hồ sơ cấp đổi không trùng với diện tích cấp ban đầu tại khu vực Lèn Ông Ngoi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu C trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng: Thẩm quyền giải quyết, người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét, giải quyết, thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.
2. Về nội dung: Xét kháng cáo của ông Đinh Xuân C yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông Cao Văn Q, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau năm 2008, xã H vẻ lại bản đồ địa chính và UBND huyện M tiến hành cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình. Theo đó, gia đình ông Q được cấp ba thửa đất, trong đó có hai thửa đất trùng với vị trí cũ cấp năm 2002 (tại lèn Ông Ngoi, tiểu khu 8, khoảnh 5) và một thửa mới tại thửa 27, tờ bản đồ số 38 (khu vực Cây Đèn). Đây là thửa đang có tranh chấp giữa gia đình ông Q và một số hộ khác, trong đó có hộ ông Đinh Xuân C. Ông C cho rằng, ông là người sử dụng đất tại phần đất đang tranh chấp từ năm 1986, tuy nhiên không xuất trình được bất cứ một loại giấy tờ nào chứng minh thời điểm sử dụng đất. Năm 2008, gia đình ông C cũng được cấp đổi hai thửa đất tại khu vực Lèn Ông Ngoi, không được cấp thửa đất số 27, tờ bản đồ số 38. Ông C cho rằng ông trồng cây từ năm 1986 nhưng đã không thực hiện nghĩa vụ kê khai với cơ quan có thẩm quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không thực hiện đúng nghĩa vụ của người sử dụng đất, sử dụng đất không có căn cứ pháp luật. Vì vậy, ông C chỉ có quyền về tài sản ở trên đất mà không phải đương nhiên được quyền sử dụng đất. Xem xét thủ tục cấp đất cho ông Q tại thửa 27, tờ bản đồ số 38 thấy bản chất của việc cấp đất tại thửa 27 là cấp mới, không phải thủ tục cấp đổi. Mặc dù hồ sơ sai về mẫu đơn nhưng thủ tục được thực hiện công khai, không có ai khiếu nại về việc cấp đất. Bản án cấp sơ thẩm đã buộc ông Q phải thanh toán tiền cây trên đất cho ông C và được sở hữu số cây trên đất là đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho cả đôi bên. Vì vậy, kháng cáo của ông C yêu cầu huỷ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Q là không có căn cứ chấp nhận.
3. Về án phí: Kháng cáo của ông Đinh Xuân C không được chấp nhận nên ông phải chịu án phí phúc thẩm. Tuy nhiên ông C thuộc đối tượng người cao tuổi nên miễn án phí phúc thẩm cho ông C.
4. Các nội dung khác không có kháng cáo, kháng nghị nên án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
Áp dụng các Điều 166, Điều 189 Bộ luật dân sự năm 2015; các Điều 135, Điều 202, điều 203 Luật đất đai năm 2013,
1. Không chấp nhận kháng cáo của ông Đinh Xuân C đối với bản án dân sự sơ thẩm số 25/2020/DS-ST ngày 26/8/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hóa, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Về án phí: Miễn án phí dân sự phúc thẩm cho ông Đinh Xuân C, ông C được nhận lại 300.000 đồng đã nộp tạm ứng tại biên lai tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2017/0004347 ngày 04/9/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Minh Hóa.
3. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị C hiệu lực thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (15/12/2020).
Bản án 21/2020/DS-PT ngày 15/12/2020 về tranh chấp quyền sử dụng đất
Số hiệu: | 21/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 15/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về