Bản án 21/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TĐ, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 21/2019/HS-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2019 tại trụ sở UBND xã BL, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2019/TLST - HS ngày 29 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2019/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: TTT, sinh ngày 26 tháng 5 năm 1989.

Nơi cư trú: thôn BN, xã BL, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: TVT và bà: PTL; có vợ là: TTB; có 02 con: lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án,Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2019, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

TTT đang làm thuê cho công trường xây dựng tại phường LB, thành phố VY. Khoảng 18h ngày 11/01/2019, T một mình đi bộ đến khu vực chợ T1, T.P VY mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi (T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) 01 gói ma túy (heroine) với giá 100.000đ để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, T đi bộ đến khu vực phía sau siêu thị HC thuộc phường LB lấy một ít ra sử dụng (bằng hình thức hít), số còn lại T gói lại và giấu vào trong túi quần bên phải đang mặc để có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Sau khi sử dụng ma túy xong, T đi bộ ra đường quốc lộ và hỏi đi nhờ xe mô tô của một người nam giới (T không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) để về nhà. Khoảng 20 h cùng ngày, khi đi đến khu vực vòng xuyến thuộc thôn BP, xã HC, huyện TĐ, T gặp một người bạn nghiện quen ngoài xã hội tự khai là TVD, sinh năm 1982 ở thôn HT, xã KL, huyện TD đang đứng ở ven đường. T bảo người lái xe dừng xe cho T xuống còn người lái xe điều khiển xe đi tiếp. T đi đến gặp D, do biết T cũng là người nghiện ma túy nên D hỏi Tâm “có đồ không, bán cho anh 200.000đ ” - T hiểu ý D hỏi có ma túy không bán cho D 200.000đ. Sẵn có ma túy trong người nên T nói “có”, D liền lấy 200.000đ - gồm 01 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ và 02 tờ tiền polime mệnh giá 50.000đ - đưa cho T, T cầm tiền và lấy gói ma túy bên ngoài bọc giấy kẻ ô ly, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng ra đưa cho D, D vừa cầm gói ma túy thì bị công an huyện TĐ bắt quả tang.

Tang vật thu giữ gồm: Thu ở tay phải của D 01 gói ma túy bên ngoài bọc giấy kẻ ô ly, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng - D khai đó là ma túy vừa mua của T - niêm phong ký hiệu M1; thu trong lòng bàn tay phải của T số tiền 200.000đ (gồm 01 tờ tiền polime mệnh giá 100.000đ và 02 tờ ti ền polime mệnh giá 50.000đ), T khai là tiền T bán ma túy cho D mà có, niêm phong ký hiệu T1.

Tại kết luận giám định số 122/KLGĐ ngày 17/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,0516g (không phẩy không năm một sáu gam, không kể bao bì), loại Heroine.

Về nguồn gốc ma túy: T khai mua của một người đàn ông (không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) ở khu vực chợ T1, T.P VY với giá 100.000đ. Sau khi mua được ma túy, T đã sử dụng một phần số còn lại bán cho D thì bị Công an huyện TĐ phát hiện bắt quả tang.

Đối với đối tượng tự khai tên là TVD, sinh năm 1982, ở thôn HT, KL, TD là người mua ma túy của T để sử dụng, sau khi bị bắt quả tang, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ đã đưa về trụ sở lấy lời khai và tường trình sự việc, lợi dụng sơ hở D đã bỏ trốn. Qua điều tra xác minh tại xã KL, huyện TD không có người nào tên là D có lai lịch như đối tượng tự khai. Do vậy CQĐT tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

Đối với người đàn ông cho T đi nhờ xe, do T không nói cho người này biết T có mang theo ma túy, mặt khác T không biết tên và địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh.

Cáo trạng số: 24/CT-VKSTĐ ngày 29 tháng 3 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ truy tố TTT về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TĐ luận tội đối với bị cáo T, giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Sau khi đánh giá, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị HĐXX: tuyên bố bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; áp dụng: khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo từ 02 năm 03 tháng đến 02 năm 06 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố tụng đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

2. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo TTT khai nhận toàn bộ về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo thừa nhận đã bán ma túy cho người thanh niên tên D vào ngày 11/01/2019 tại khu vực Vòng Xuyến thuộc thôn BP, xã HC, huyện TĐ như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng và không có lời bào chữa nào khác.

Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các lời khai, bản kiểm điểm của bị cáo, lời khai của người mua ma túy, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ khác thể hiện trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo TTT phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy", tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự. 

Điều luật quy định: “Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

2. Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là táo bạo, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo vì ham lợi cho bản thân, bán ma túy cho người khác sử dụng, gây nghiện, kéo theo các hệ lụy xấu cho chính người sử dụng ma túy, cho gia đình và xã hội. Mặc dù các hành vi liên quan đến ma tuý đã được tuyên truyền giáo dục nhiều, song các tội phạm trên cũng chưa giảm, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn. Do vậy cần xét xử thật nghiêm minh trước pháp luật để cải tạo giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.

Khi xem xét hình phạt đối với bị cáo, Hội đồng xét xử đã cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cần xử phạt bị cáo một mức án tù nhất định để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Theo quy định tại Khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,......... tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Qua xem xét điều kiện, hoàn cảnh của bị cáo thấy rằng: bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có việc làm ổn định, việc mua bán ma túy không đem lại thu nhập cho gia đình. Vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho T tại khu vực chợ Tổng, thành phố VY. Do T không xác định được nhân thân, lai lịch, địa chỉ của người đó nên cơ quan điều tra tiếp tục điều tra, xác minh làm rõ, khi nào có cơ sở sẽ xem xét xử lý sau là phù hợp.

Đối với đối tượng tự khai tên là TVD, sinh năm 1982, ở thôn HT, xã KL, huyện TD là người mua ma túy của T để sử dụng, sau khi bị bắt quả tang, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện TĐ đã đưa về trụ sở lấy lời khai và tường trình sự việc, lợi dụng sơ hở D đã bỏ trốn. Qua điều tra xác minh tại xã KL, huyện TD không có người nào tên là D có lai lịch như đối tượng tự khai. Do vậy CQĐT tiếp tục xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là phù hợp.

Đối với người đàn ông cho T đi nhờ xe, do T không nói cho người này biết T có mang theo ma túy, mặt khác T không biết tên và địa chỉ cụ thể của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh là đúng.

4. Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với số mẫu vật ma túy do phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn trả sau giám định là 0,0000 gam mẫu cùng toàn bộ bao gói cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 200.000đ thu giữ của TTT là tiền do bán trái phép chất ma túy mà có nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

5. Về án phí: Bị cáo TTT phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí.

Tuyên bố: TTT phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Xử phạt: TTT 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 01 năm 2019.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 0,0000g và bao gói niêm phong được hoàn trả lại sau giám định.

Tịch thu sung quỹ nhà nước: 200.000đ thu giữ của T. (tất cả có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện TĐ và Chi cục thi hành án dân sự huyện TĐ).

Án phí: TTT phải chịu 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân cấp trên để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2019/HS-ST ngày 18/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:21/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về