Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 01/03/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 21/2018/HNGĐ-ST NGÀY 01/03/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 01 tháng 3 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 646/2017/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 10 năm 2017 về “tranh chấp về Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 01 năm 2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Ngọc S, sinh năm 1982 (Có mặt);

Cư trú tại: Tổ A, ấp Thanh T1, xã Thanh Đ, huyện C T, tỉnh Tây Ninh.

- Bị đơn: Anh Võ Văn T, sinh năm: 1982 (Vắng mặt);

Cư trú tại: Tổ B, ấp Thanh T1, xã Thanh Đ, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 10 năm 2017 và các lời khai có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Lê Thị Ngọc S trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh T chung sống với nhau vào năm 2003, đến ngày 20/8/2003 đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Thanh Đ, huyện C T, tỉnh Tây Ninh. Thời gian mới kết hôn vợ chồng chị chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn do anh T hay nhậu, không lo làm ăn, cãi vả thường xuyên, vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không thể hòa giải mâu thuẫn. Chị bỏ về nhà mẹ ruột sống từ tháng 3/2017 đến nay. Nay chị nhận thấy mâu thuẫn giữa hai vợ chồng rất trầm trọng, tình cảm đã thực sự không còn nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Võ Văn T.

Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Võ Thị Tường V, sinh ngày 20/6/2004, Võ Tuyết N, sinh ngày 27/01/2006. Hiện nay, chị là người trực tiếp nuôi con. Chị yêu cầu tiếp tục tục nuôi hai con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Chị xác định không có nợ chung.

Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh Võ Văn T đến để giải quyết vụ án nhưng anh T đều vắng mặt không rõ lý do nên không có ý kiến của anh T.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnhTây Ninh trình bày:

Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng dân sự, không có vi phạm. Các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận cho chị S và anh T được ly hôn. Về con chung: Giao con chung cho chị S trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục, anh T không phải cấp dưỡng nuôi vì chị S không yêu cầu. Ghi nhận tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Võ Văn T là bị đơn, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không rõ lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 xét xử vắng mặt anh T.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn ngày 20/8/2003 tại UBND xã Thành Long, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ.

[3]. Về mâu thuẫn của vợ chồng. Xét thấy quá trình sống chung anh T thường xuyên uống rượu, không lo làm ăn, cãi vã thường xuyên nên quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn. Dù vợ chồng đã cố gắng hàn gắn nhưng không thể hòa giải mâu thuẫn. Chị S và anh T sống ly thân từ tháng 3/2007 đến nay. Tòa án đã triệu tập anh T nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa án làm việc và không có ý kiến gì về yêu cầu ly hôn của chị S .

[4]. Toà án đã tiến hành thu thập chứng cứ ghi lời khai xác minh những người biết việc xác định mâu thuẫn vợ chồng như chị S trình bày là đúng. chị Svà anh T ly thân từ tháng 3/2017 đến nay. Điều này vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Từ những phần tích trên xét thấy yêu cầu xin ly hôn của chị S là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị là phù hợp Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

[5] Về con chung: Vợ chồng chị S, anh T có 02 con chung là Võ Thị Tường V, sinh ngày 20/6/2004, Võ Tuyết N, sinh ngày 27/01/2006. Chị S có yêu cầu nuôi các con chung vì chị đang làm công nhân đế giày lương mỗi tháng 5.500.000 đồng, có điều kiện chăm sóc con. Mặt khác, cháu V, cháu N có nguyện vọng được sống với chị S, khi chị S và anh T ly hôn. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung, Hội đồng xét xử xét thấy cần giao con chung cho chị S trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là phù hợp khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Ghi nhận chị S không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

[6] Về tài sản chung: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết, anh T không có ý kiến nên không đặt ra giải quyết.

[7] Về nợ chung: Chị S trình bày không có, anh T không có ý kiến nênHội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[8] Về án phí: Do chị Lê Thị Ngọc S là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Anh Võ Văn T không phải chịu án phí sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Điều 81; 82; 83 Luật Hôn nhân và  gia  đình;  Điều  147  Bộ  luật  tố  tụng  dân  sự;  Điều  27  Nghị  quyết  số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê ThịNgọc S đối với anh Võ Văn T. Chị Lê Thị Ngọc S được ly hôn với anh Võ VănT.

2. Về con chung: Chị Lê Thị Ngọc S tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Võ Thị Tường V, sinh ngày 20/6/2004 và Võ Tuyết N, sinh ngày 27/01/2006. Ghi nhận chị S không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở anh T thực hiện quyền này.

3. Về tài sản chung: Chị S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết;

4. Về nợ chung: Không có nên không có nên không đặt ra giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Ngọc S phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (Ba trăm ghìn) đồng theo biên lai thu số 0018298 ngày 06/10/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh. Chị Lê Thị Ngọc S đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên toà hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/HNGĐ-ST ngày 01/03/2018 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:21/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:01/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về