Bản án 21/2018/DSST ngày 13/06/2018 về tranh chấp nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Q, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 21/2018/DSST NGÀY 13/06/2018 VỀ TRANH CHẤP NGHĨA VỤ THANH TOÁN THEO HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA

Ngày 13 tháng 6 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2018/TLST-DS ngày 25 tháng 01 năm 2018 về “Tranh chấp nghĩa cụ thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2018/QĐXXST-DS ngày 08/5/2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 55/2018/QĐST-DS ngày 24/05/2018 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH) Thương Mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V.

Địa chỉ trụ sở: Thôn B, xã T, huyện X, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Chí T, sinh năm 1975 – Giám đốc

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Ngọc A, sinh năm 1975.

Địa chỉ: Số nhà 301 đường Trần Hưng Đ, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (Theo văn bản ủy quyền ngày 30/12/2017 của Giám đốc Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương Mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V).

2.Bị đơn:Ông Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Hẻm 420 đường Lê L (nay là đường Lê Quý Đ), tổ 6, phường NL, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Ông A có mặt; ông T vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 30/12/2017, bản tự khai ngày 31/01/2018 quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ông Huỳnh Ngọc A là người đại diện theo ủy quyền cho nguyên đơn(Công ty TNHH Thương Mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V) trình bày:

Từ năm 2011 đến năm 2016 Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh nhiều lần bánhàng “Thịt trâu đông lạnh” cho ông Nguyễn Ngọc T (trú tại: Hẻm 420 Lê L, tổ 6, phường NL, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi) để ông T bán lại cho các quán ăn. Do việc mua bán theo nhu cầu đặt hàng của ông T nên hai bên không lập hợp đồng mà chỉ liên lạc qua điện thoại. Căn cứ theo điện thoại đặt hàng của ông T, Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh chuyển hàng cho ông T bằng phương tiện gửi theo xe hàng hoặc xe khách và khi nhận hàng ông T thông báo lại là đã nhận đủ hàng theo yêu cầu.

Việc mua bán giữa hai bên kéo dài từ năm 2011 đến ngày 02/6/2016 thì phía ông T còn nợ của Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh số tiền: 714.435.000đ (Bảy trăm mười bốn triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn đồng).

Ngày 18/01/2017 Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh lập bản đối chiếu công nợ và giữa hai bên ký xác nhận công nợ tính đến ngày 18/01/2017 ông Nguyễn Ngọc T còn nợ của Chi nhánhCông ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi V tại thành phố Hồ Chí Minh số tiền: 714.435.000đ (Bảy trăm mười bốn triệu, bốn trăm ba mươi lăm nghìn đồng). Sau khi đối chiếu công nợ ông T kéo dài không trả nợ cho đến ngày 07/5/2017 ông T trả được số tiền 1.120.000đ (Một triệu, một trăm hai mươi nghìn đồng) và sau đó tiếp tục kéo dài, không trả nợ. Ngày 18/12/2017 Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh tiếp tục lập bản đối chiếu công nợ và ông Nguyễn Ngọc T ký xác nhận còn nợ của Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh số tiền: 713.315.000đ (Bảy trăm mười ba triệu, ba trăm mười lăm nghìn đồng).

Về chứng cứ nguyên đơn đã nộp gồm có: Biên bản đối chiếu công nợ ngày 18/01/2017; 18/12/2017 giữa Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh với ông Nguyễn Ngọc T.

Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T phải trả cho Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V số tiền nợ mua hàng chưa thanh toán còn lại là: 713.315.000đồng (Bảy trăm mười ba triệu, ba trăm mười lăm nghìn đồng).

Tại đơn khởi kiện Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V yêu cầu ông Nguyễn Ngọc T phải trả tiền nợ lãi tổng cộng  là 84.088.000 đồng (tạm tính từ ngày 18/01/2017 đến ngày 18/12/2017), lãi suất 1,07%/tháng) nhưng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu về tiền lãi suất đối với ông T, không yêu cầu ông T trả tiền nợ lãi.

Bị đơn ông Nguyễn Ngọc T không có văn bản trình bày.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Ông Nguyễn Ngọc T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để đến tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông T.

[2]Về nội dung: Căn cứ biên bản đối chiếu công nợ ngày 18/01/2017, biên bản đối chiếu công nợ ngày 18/12/2017 giữa chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minhthuộc Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V với ông Nguyễn Ngọc T, ông T ký xác nhận tính đến ngày 08/05/2017 còn nợ chi nhánh Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V tại thành phố Hồ Chí Minh số tiền 713.315.000 đồng(Bảy trăm mười ba triệu, ba trăm mười lăm nghìn đồng).

Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản, thủ tục tố tụng của Tòa án cho ông Nguyễn Ngọc T, thông báo về nội dung khởi kiện của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V yêu cầu ông T phải trả số tiền mua hàng còn lại chưa thanh toán là 713.315.000 đồng theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông Nguyễn Ngọc T không nộp văn bản trình bày ý kiến, không đến Tòa án để thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị đơn. Do đó, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V, buộc ông Nguyễn Ngọc T phải trả số tiền nợ mua hàng còn lại chưa thanh toán là 713.315.000 đồng theo Điều Điều 428, Điều 438của Bộ luật dân sự năm 2005.

[2.1]Về tiền nợ lãi: Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn rút toàn bộ yêu cầu giải quyết về tiền lãi suất, không yêu cầu giải quyết về tiền lãi suấtlà 84.088.000 đồng (tạm tính từ ngày 18/01/2017 đến ngày 18/12/2017)là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại điểm c khoản 1 Điều 217 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử đối với yêu cầu giải quyết về tiền lãi suất của Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V đối với ông Nguyễn Ngọc T.

[2.2]Về án phí:Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Ông Nguyễn Ngọc T phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền phải trả cho Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V là32.532.600 đồng{(20.000.000 đồng + (313.315.000 đồng x 4%)}.

Hoàn trả lại cho Công ty TNHH Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V số tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì những lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 217 và các điều 235, 266, 271, khoản 1 Điều 273, Điều 278 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2006 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Điều 428, Điều 438 của Bộ luật Dân sự năm 2005;

Tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Trách nhiệm hữu hạn

Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V. Buộc ông Nguyễn Ngọc T phải trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V số tiền 713.315.000 đồng (bảy trăm mười ba triệu ba trăm mười lăm nghìn đồng).

2/ Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu về tiền lãi suất của Công ty Trách nhiệm hữu hạnThương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V đối với ông Nguyễn Ngọc T.

3/ Ông Nguyễn Ngọc T phải chịu số tiền 32.532.600 đồng (Ba mươi hai triệu năm trăm ba mươi hai nghìn sáu trăm đồng)án phí dân sự sơ thẩm.

Hoàn trả cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại dịch vụ chăn nuôi nông nghiệp V số tiền tạm ứng án phí đã nộp 17.971.000đồng (Mười bảy triệu chín trăm bảy mươi mốt nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2016/000200 ngày 23/01/2018 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả tiền thì người phải thi hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự năm 2015 cho đến khi thi hành án xong.

4/ Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với ông Nguyễn Ngọc T vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

574
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2018/DSST ngày 13/06/2018 về tranh chấp nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng mua bán hàng hóa

Số hiệu:21/2018/DSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 13/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về