Bản án 21/2017/HSST ngày 27/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 21/2017/HSST NGÀY 27/07/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 27 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2017/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2017/HSST-QĐ, ngày 14 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

HÀ VĂN H;  Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1993.

Nơi sinh: Xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Nơi cư trú: Xóm T1, xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Mường; Bố đẻ: Hà Văn L (Đã chết);

Mẹ đẻ: Hà Thị B Sinh năm 1972;

Vợ, con: Chưa có.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Có 01 tiền sự; Ngày 23/12/2013, Chủ tịch UBND huyện T ra Quyết định số 4284/QĐ-CTUBND đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâp GD-LĐXH tỉnh Phú Thọ (Bút lục số 41).

Bị cáo bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2017. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ (có mặt).

Ngưi bào chữa cho bị cáo: Ông Lã Thành Công – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Phú Thọ (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1, Anh Hà Đình G Sinh năm 1976 (vắng mặt).

Trú quán: Xóm L, xã V1, huyện T1, tỉnh Phú Thọ.

2, Ông Hà Văn T Sinh năm 1962 (vắng mặt).

Trú quán: Xóm T1, xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

a) Về hành vi phạm tội của bị cáo: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 01/4/2017, anh Hà Đình G gọi đ iện cho Hà Văn H để hỏi mua ma tuý (Đá) với giá 500.000 đồng, H đồng ý và hẹn gặp tại xóm L, xã V1, huyện T1, tỉnh Phú Thọ để bán ma tuý. Đến khoảng 21 giờ, H sang nhà ông Hà Văn T – Sinh năm: 1962, HKTT: xã V, huyện T, tỉnh Phú Thọ là bác của H mượn chiếc xe mô tô BKS: 19K2-7709 của ông T với lý do sang nhà mẹ vợ H để thăm con ốm. Sau đó H điều khiển xe mô tô mang theo ma tuý (Đá) dạng tinh thể màu trắ ng được gói trong một gói nilon màu trắng (Số ma tuý trên H mua của một người đàn ông lái taxi ở TP. Hà Nội từ trước) đến địa điểm đã hẹn với anh G thì thấy anh G đã đứng đợi. Đến 21 giờ 40 phút cùng ngày, Công an huyện Tân Sơn làm nhiệm vụ tại xã V1, huyện T1, tỉnh Phú Thọ phát hiện và bắt quả tang Hà Văn H đang bán trái phép chất ma tuý cho Hà Đình G - Sinh năm: 1976, HKTT: xã V1, huyện T1, tỉnh Phú Thọ. Khi kiểm tra, phát hiện tại tay phải của Hà Đình G đang cầm 01 gói nilon màu trắng bên trong có chưa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, trong suốt. Anh G khai nhận đây là gó i ma tuý (Đá) vừa mua của H với giá 500.000 đồng. Kiểm tra phát hiện thu giữ trên tay phải của Hà Văn H đang cầm 500.000 đồng (01 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng và 03 tờ tiền mỗi tờ mệnh giá 100.000 đồng), H khai nhận đây là số tiền H bán ma tuý cho G có được. (Bút lục số 19).

Tại phiên toà hôm nay b ị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Hà Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo đã có hành vi bán trái phép 0,086 gam có Methamphetamine cho Hà Đình G với giá 500.000 đồng, thì bị Công an huyện T1, tỉnh Phú Thọ phát hiện và bắt giữ.

b) Về các vấn đề khác của vụ án:

Tại Bản kết luận giám định số 868/KLGĐ ngày 02/04/2017 của phòng Kỹ

thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ kết luận: “Mẫu vật gửi đến giám định ở dạng chất rắn dạng tinh thể màu trắng được chứa trong 01 (Một) gói nilon màu trắng; có trọng lượng (Khối lượng) 0,086 gam, có Methamphetamine.

* Methamphetamine là chất ma tuý nằm trong danh mục II, số thứ tự 67, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ”. (Bút lục số 24b).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ và quyết đ ịnh xử lý vật chứng của Công an huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

c) Về trích dẫn cáo trạng của Viện kiểm sát:

Tại bản cáo trạng số 21/KSĐT ngày 26/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ truy tố bị cáo Hà Văn H về tộ i “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 điều 194 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 đ iều 194, điểm p khoản 1,2 đ iều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Phạt từ 03 đến 04 năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ, tạm giam là ngày 01/4/2017. Không phạt tiền bổ sung.

Áp dụng khoản 1 điều 41 BLHS, khoản 1; điểm a, c khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu để sung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng là tiền H bán ma túy có được và 01 điện thoại di động hiệu Viettel đã qua sử dụng.

Tịch thu để tiêu hủy 01 bì giấy số: 868/KLGĐ ngày 02/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ niêm phong mẫu vật còn lại sau giám định.

Trợ giúp viên pháp lý bào chữa: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở nơi có điều kiện kinh tế khó khăn, nhất trí các tình tiết giảm nhẹ mà Kiểm sát viên đề cập. Đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo mức án thấp nhất khung hình phạt.

Quá trình đ iều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, trợ giúp viên pháp lý, những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Mong Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình và xã hội

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Hồi 21 giờ 40 phút ngày 01/4/2017, tại xóm L, xã V1, huyện T1, tỉnh Phú Thọ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Sơn phát hiện, bắt quả tang Hà Văn H đang có hành vi bán ma tuý (Đá) dạng t inh thể màu trắng được gói trong 01 gó i nilon màu trắng cho anh Hà Đình G với giá là 500.000 đồng có khối lượng (Trọng lượng) là 0,086 gam, có Methamphetamine.  Sự khai nhận này hoàn toàn phù hợp với lời khai của b ị cáo (Bút lục số 35), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án tại Cơ quan đ iều tra. Do vậy có đủ cơ sở kết luận b ị cáo Hà Văn H phạm tộ i “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, truy tố bị cáo theo khoản 1 điều 194 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Tội phạm và hình phạt đã được quy định tại đ iều 194 BLHS. Tại khoản 1 điều 194 BLHS có ghi “Người nào… mua bán trái phép…chất ma tuý thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Xét tính chất vụ án: Là nghiêm trọng, hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của b ị cáo đã thể hiện sự coi thường pháp luật, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, nhất là loại ma túy đá hiện nay đã trực tiếp để lại nhiều hậu quả khôn lường, gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe con người. Cũng vì ma túy là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, lừa đảo, cướp giật tài sản,...để có tiền mua bán, sử dụng trái phép ma túy. Hành vi đó đã gây mất trật tự an ninh trong khu vực. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong xã hội hiện nay.

Xét nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu (có 01 tiền án về tộ i “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xử phạt 04 tháng tù giam, theo bản án số 54/2011/HS-ST, ngày 25/10/2011, đã thi hành án dân sự xong ngày 19/6/2012, nay đương nhiên được xóa án tích theo điểm b khoản 2 Đ iều 64 của BLHS), ngoài ra bị cáo còn có 01 tiền sự về việc bị áp dụng b iện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện ma túy bắt buộc, nhưng đã bỏ trốn, bị truy tìm ngày 05/01/2014 (Bút lục số 41,42). Vì bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, mục đích bán ma túy nhằm kiếm lời để có tiền sử dụng ma túy. Tại cơ quan điều tra và phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo nhận tội và hố i hận đối với hành vi đã gây ra nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 đ iều 46 BLHS là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xong vì có nhân thân xấu nên Hộ i đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo mức án tương xứng ở khoảng giữa khung hình phạt và cách ly b ị cáo ra khỏi đời sống chung của xã hội một thời gian thích hợp để cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội sau này.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định t ại khoản 5 điều 194 BLHS quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm ”.

Theo biên bản xác minh ngày 04/4/2017 (Bút lục số 47) của Công an huyện Tân Sơn và tại phiên tòa đã xác định: Bị cáo đang sống cùng gia đình, không có tài sản gì có giá trị, không có nghề nghiệp ổn định. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Đối với anh Hà Đình G là đối tượng nghiện và mua ma túy của H để sử dụng, không có mục đích bán kiếm lời, khối lượng ma tuý là 0,086 gam chưa đến mức xử lý hình sự về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý. Do vậy, ngày 26/4/2017 Công an huyện Tân Sơn đã ra Quyết định số 70/QĐ-XPHC về xử phạt vi phạm hành chính đối với G theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 Nghị định số 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ xử phạt G số tiền 1.500.000 đồng là phù hợp (Bút lục số 73).

Đối với chiếc điện thoại của Hà Đình G dùng để liên lạc với Hà Văn H đã bị rơi ở khu vực xóm Láng khi đang chờ H mang ma túy đến. Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Tân Sơn đã tổ chức truy tìm chiếc điện thoại nhưng không thu giữ được vật chứng để xử lý là phù hợp (Bút lục số 20a).

Đối với người đàn ông lái taxi ở thành phố Hà Nộ i theo lời khai của H là người đã bán số ma túy trên cho H với giá 200.000 đồng, do H không biết tên, tuổi, địa chỉ của người này và gặp ở đâu. Quá trình đ iều tra, không xác định được người như H mô tả nên Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tân Sơn không có căn cứ để xác minh, điều tra làm rõ, xử lý trong vụ án này.

Đối với chiếc xe mô tô BKS: 19K2-7709, giấy tờ xe đứng tên ông Hà Văn T. Ông T là bác của H, H chỉ mượn để sử dụng, không nói với ông T là dùng để đi bán ma tuý. Ông T không biết H dùng xe để đi bán ma tuý. Do đó Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Sơn đã trả lại chiếc xe mô tô trên cho ông T là phù hợp (Bút lục số 72).

Xét về vật chứng gồm: 0,061 gam chất rắn tinh thể màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định, được dán kín trong 01 bì giấy có đóng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ và các chữ ký của giám định viên tư pháp tại các vị trí trên mép dán. Thấy rằng ma tuý là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Tịch thu để sung quỹ nhà nước số tiền 500.000 đồng là tiền H bán ma túy có được và 01 điện thoại di động hiệu Viettel đã qua sử dụng là điện thoại của H để dùng liên lạc khi bán ma túy.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Đề nghị của Kiểm sát viên về hình phạt là phù hợp với nộ i dung vụ án và nhân thân bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với bản luận cứ bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý đã nhất trí tình tiết giảm nhẹ và đề nghị giảm nhẹ nhất khung hình phạt của điều luật là không thể chấp nhận được, mức án đầu khung hình phạt là chưa nghiêm, chưa có tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm nên không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Hà Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Căn cứ khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự. Phạt bị cáo Hà Văn H 04 (Bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 01/4/2017.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với b ị cáo.

Áp dụng khoản 1 Điều 41 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 76 BLTTHS. Tịch thu 0,061 gam gam chất rắn tinh thể màu trắng là mẫu vật còn lại sau giám định, được dán kín trong 01 bì giấy có đóng 05 hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Phú Thọ và các chữ ký của giám định viên tư pháp tại các vị trí trên mép dán. Thấy rằng ma tuý là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Tịch thu để sung quỹ nhà nước số tiền 500.000đ (Năm trăm ngàn đồng) và 01 điện thoại di động hiệu Viettel đã qua sử dụng.

Toàn bộ vật chứng đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án huyện Tân Sơn tỉnh Phú Thọ, theo biên bản giao nhận ngày 25/7/2017.

Áp dụng khoản 1,2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc bị cáo Hà Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo có mặt được quyền kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết nơi cư trú để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

264
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 21/2017/HSST ngày 27/07/2017 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:21/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về