Bản án 211/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 211/2020/HSST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử vụ án hình sự thụ lý số: 205/2020/HSST ngày 02 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2020/QĐXXST- HS ngày 14 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:

Trương Văn H Sinh năm 1980, tại Thành phố H; Tên gọi khác: không; Nơi đăng ký thường trú: 61/3 ấp X, xã Đ, huyện H, Thành phố H; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Trương Văn N và bà Nguyễn Thị D; Anh chị em ruột: 03 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ, con: vợ tên Phan Thị H; có 01 con sinh năm 2004; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 10/5/2012, bị TAND thành phố T, tỉnh B xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; Ngày 12/3/2015, bị Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố H xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 06/02/2009 và ngày 02/02/2017, bị Công an xã Đ, huyện H xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 23/6/2020 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Đinh Vũ P, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 61/3C ấp X, xã Đ, huyện H, Thành phố H. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 11 giờ ngày 23/6/2020, tổ công tác đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an huyện H kết hợp với Công an xã T kiểm tra hành chính khách sạn Kim Thảo số 60/7 QL 22, ấp M, xã T, huyện H, phát hiện tại phòng số 204 có Trương Văn H đang cất giấu ma túy để sử dụng, thu giữ trong tay áo của H 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng và 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng trên kệ gỗ (ký hiệu mẫu m1). Tại phòng thuê còn có Võ Thị Anh T, thu giữ trong túi quần T 01 đoạn ống hút nhựa chứa chất bột màu trắng (ký hiệu mẫu m2), nên Công an mời cả hai về làm việc (BL28-31). Khám xét nơi ở của H tại 61/3 ấp X, xã Đ, huyện H, thu giữ thêm 01 hộp nhựa bên trong có 01 số gói nylon và 01 gói giấy bạc không chứa gì, 01 dao lam.

Tại Cơ quan điều tra H khai nhận: Bản thân nghiện ma túy, sáng ngày 23/6/2019 H đến khu vực An Sương mua 2,5 phân ma túy giá 1.300.000đ rồi cất trong tay áo, đến khoảng 10 giờ cùng ngày H gặp bạn gái tên T thì rủ T cùng đến phòng số 204 khách sạn Kim Thảo để gặp tên Q (không rõ lai lịch) lấy xe máy. Khi cả hai đến đây không gặp Q mà gặp Th (không rõ lai lịch) bạn gái Q, ngồi chờ một lúc thì Th cũng ra ngoài còn H và T ở lại chờ Q. Trong lúc chờ, H lấy ma túy ra sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang cùng vật chứng. T khai bản thân nghiện ma túy có cất 01 tép Heroine để sử dụng nhưng chưa sử dụng, việc H mua ma túy và cất giấu T không biết, chỉ nhìn thấy H lấy ma túy ra sử dụng thì bị bắt.

Tại bản kết luận giám định số 1071/KLGĐ-H ngày 01/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng trong 02 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) đưa đến giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 1,4121g loại Heroine; Chất bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa (ký hiệu mẫu m2) đưa đến giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 0,0436g loại Heroine (BL41).

Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra xác định: Khoảng 01 giờ 25 phút ngày 29/01/2020 H lén lút đột nhập vào nhà số 61/3C ấp X, xã Đ, huyện H của anh Đinh Vũ P, trộm cắp tài sản gồm: 600.000 đồng, 01 xe máy hiệu Sirius biển số 94H4-6470, 01 tivi hiệu Sharp 32 in, 09 cuộn dây điện các loại. Sau đó bán tài sản được 4.000.000 đồng đã tiêu xài cá nhân hết.

Kết luận định giá tài sản số 33 ngày 25/02/2020, kết luận: 01 xe máy hiệu Sirius màu bạc biển số 94H4-6470 trị giá 7.000.000 đồng, 01 tivi hiệu Sharp 32 inch trị giá 1.000.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại 02 lõi hiệu Daphaco trị giá 1.064.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại dây đôi mềm hiệu Daphaco trị giá 533.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại 03 lõi hiệu Daphaco trị giá 1.064.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại cáp 1.5 loại 01 lõi hiệu Daphaco trị giá 363.000 đồng, 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi dài 100m loại cáp 1.5 loại 01 lõi trị giá 500.000 đồng, 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi dài 100m loại dây đơn lõi trị giá 700.000 đồng, 01 cuộn dây điện hiệu Daphaco dài 100m loại cáp 2,5mm2 loại 01 lõi trị giá 490.000 đồng. Tổng số tiền 12.714.000 đồng (BL172-175);

Lời khai của H phù hợp với lời khai của người nghiện T, phù hợp với khai bị hại P, phù hợp với vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án (BL56-67).

Đối với hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Võ Thị Anh T chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra chuyển hồ sơ về địa phương xử lý hành chính.

Vật chứng: 02 gói niêm phong mang số vụ 1071/1 và 1071/2, 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen đã cũ, 01 điện thoại di động hiệu Vivk màu bạc đã cũ (CQĐT đang tạm giữ ) Dân sự: bị hại yêu cầu bồi thường trị giá tài sản là 12.714.000 đồng và 600.000 đồng tiền mặt mà bị cáo đã lấy trộm.

Tại Bản cáo trạng số: 195/CT-VKS – HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố H đã truy tố bị cáo Trương Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H giữ quyền công tố tại phiên tòa xác định: Căn cứ vào lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai tại phiên tòa hôm nay của bị cáo cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trương Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 01 ( Một) năm đến 01(Một) năm 06( Sáu) tháng tù về tội trộm cắp tài sản, 02( Hai ) đến 03 ( Ba) năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy tù giam và xử lý vật chứng và bồi thường dân sự theo quy định.

Các ý kiến sẽ được Hội đồng xét xử xem xét khi thảo luận, nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Trương Văn H khai nhận bị cáo là nghiện ma túy.

Sáng ngày 23/6/2019 H đến khu vực An Sương mua 2,5 phân ma túy giá 1.300.000đ rồi cất trong tay áo, đến khoảng 10 giờ cùng ngày H gặp bạn gái tên T thì rủ T cùng đến phòng số 204 khách sạn Kim Thảo để gặp tên Q (không rõ lai lịch) lấy xe máy. Khi cả hai đến đây không gặp Q mà gặp Th (không rõ lai lịch) bạn gái Q, ngồi chờ một lúc thì Th cũng ra ngoài còn H và T ở lại chờ Q. Trong lúc chờ, H lấy ma túy ra sử dụng thì bị Công an kiểm tra bắt quả tang cùng tang vật như cáo trạng truy tố. Ngoài hành vi phạm tội này, khi bị bắt, H còn khai nhận: Khoảng 01 giờ 25 phút ngày 29/01/2020 H lén lút đột nhập vào nhà số 61/3C ấp X, xã Đ, huyện H của anh Đinh Vũ P, trộm cắp tài sản gồm: 600.000 đồng, 01 xe máy hiệu Sirius biển số 94H4-6470, 01 tivi hiệu Sharp 32 in, 09 cuộn dây điện các loại. Sau đó bán tài sản được 4.000.000 đồng đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận giám định số 1071/KLGĐ-H ngày 01/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố H kết luận: Chất bột màu trắng trong 02 gói nylon (ký hiệu mẫu m1) đưa đến giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 1,4121g loại Heroine; Chất bột màu trắng trong 01 đoạn ống nhựa (ký hiệu mẫu m2) đưa đến giám định là ma tuý ở thể rắn, có khối lượng 0,0436g loại Heroine.

Tại Kết luận định giá tài sản số 33 ngày 25/02/2020, kết luận: 01 xe máy hiệu Sirius màu bạc biển số 94H4-6470 trị giá 7.000.000 đồng, 01 tivi hiệu Sharp 32 inch trị giá 1.000.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại 02 lõi hiệu Daphaco trị giá 1.064.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại dây đôi mềm hiệu Daphaco trị giá 533.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại 03 lõi hiệu Daphaco trị giá 1.064.000 đồng, 01 cuộn dây cáp điện dài 100m loại cáp 1.5 loại 01 lõi hiệu Daphaco trị giá 363.000 đồng, 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi dài 100m loại cáp 1.5 loại 01 lõi trị giá 500.000 đồng, 02 cuộn dây điện hiệu Cadivi dài 100m loại dây đơn lõi trị giá 700.000 đồng, 01 cuộn dây điện hiệu Daphaco dài 100m loại cáp 2,5mm2 loại 01 lõi trị giá 490.000 đồng. Tổng số tiền 12.714.000 đồng;

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó, bản Cáo trạng số: 195/CT-VKS – HS ngày 27 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Thành phố H đã truy tố bị cáo Trương Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 và tội “Trộm cắp tài sản” khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ và đúng pháp luật.

[2] Bị cáo Trương Văn H là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết việc tàng trữ ma túy là trái pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình mua ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển mà cất giấu sử dụng để thỏa mãn cơn nghiện. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp nghiêm trọng, đã xâm phạm đến độc quyền quản lý ma túy của Nhà nước. Bị cáo biết ma túy Nhà nước cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển… nhưng bị cáo vẫn quyết tâm thực hiện tội phạm và phạm tội một cách cố ý trực tiếp, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội. Với hành vi trộm cắp tài sản bằng hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và tạo ra một dư luận xấu trong nhân dân. Mặt khác, bị cáo mới chấp hành bản án 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản nhưng nay lại tiếp tục phạm nhiều tội khác nhau từ đầu năm 2020 với hành vi phạm tội nghiêm trọng hơn. Điều này chứng tỏ bị cáo hết sức xem thường pháp luật nên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử cần có hình phạt nghiêm khắc hơn để thể hiện tình răn đe đối với bản thân bị cáo và phòng ngừa chung.Tuy nhiên khi lượng hình cũng cần xem xét về nhân thân, những tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Về nhân thân: Bị cáo H có nhân thân xấu:

- Ngày 10/5/2012, bị TAND thành phố T, tỉnh B xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”;

- Ngày 12/3/2015, bị Tòa án nhân dân huyện H, Thành phố H xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Ngày 06/02/2009, bị Công an xã Đ, huyện H, Thành phố H xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc;

- Ngày 02/02/2017, bị Công an xã Đ, huyện H, Thành phố H xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Tình tiết tăng nặng: không.

Tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây được xác định là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm s khoản 1 điều 51 BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Về ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H đề nghị Hội đồng xét xử phạt tù bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tại phiên tòa bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

[5]Về xử lý vật chứng:

- Đối với 02 gói chứa chất bột màu trắng có tổng khối lượng 1,4557gram qua giám định là chế phẩm heroin, 01 hộp nhựa bên trong chứa một số gói nylon và một số gói giấy bạc, 01 lưỡi lam không có giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự;

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Sony màu đen đã cũ, 01 điện thoại di động hiệu Vivk màu bạc đã cũ thu giữ của bị cáo và của đối tượng T được xác định là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên áp dụng điều 47 Bộ luật hình sự Hội đồng xét xử quyết định tịch thu sung quỹ Nhà nước;

[6] Hình phạt bổ sung:

Hội đồng xét xử quyết định áp dụng khoản 5 điều 249 Bộ luật hình sự, phạt tiền bị cáo 5.000.000 (Năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

[7]Về trách nhiệm dân sự: tại phiên tòa bị hại là ông Đinh Vũ P vắng mặt nhưng thể hiện tại cơ quan điều tra cũng như tại đơn xin xét xử vắng mặt và bản tự khai tại Tòa, ông P yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền theo kết luận định giá tại cơ quan điều tra và 600.000 đồng tiền mặt, tổng cộng là 13.314.000 đồng, thi hành khi án có hiệu lực pháp luật. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo bồi thường cho bị hại Đinh Vũ P 13.314.000 đồng, thi hành một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

[8] Về Án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm c khoản 1, 5 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51, điều 47, Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào Điều 106 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;) - Tuyên bố: bị cáo Trương Văn H phạm tội “ Trộm cắp tài sản” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: bị cáo Trương Văn H: 02( Hai) năm Tù về tội Trộm cắp tài sản và 02( Hai) năm 06( sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội bị cáo Trương Văn H phải chấp hành là 04( Bốn) năm 06( Sáu) tháng tù, thời hạn tù được tính từ ngày 23/6/2020.

- Về xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy 02 gói chứa chất bột màu trắng có tổng khối lượng 1,4557 gram qua giám định là chế phẩm heroin, 01 hộp nhựa bên trong chứa một số gói nylon và một số gói giấy bạc, 01 lưỡi lam;

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại hiệu Sony màu đen đã cũ, 01 điện thoại di động hiệu Vivk màu bạc đã cũ thu giữ của bị cáo H và của đối tượng T;

Vật chứng của vụ án do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 30/10/2020 của Công an huyện H.

- Buộc bị cáo Trương Văn H bồi thường cho bị hại Đinh Vũ P 13.314.000 đồng, thi hành một lần khi án có hiệu lực pháp luật.

- Phạt bị cáo Trương Văn H số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng để sung quỹ Nhà nước.

- Án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 665.700 đồng bị cáo Trương Văn H phải chịu, thi hành tại Chi cục thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo chưa thi hành các khoản tiền nêu trên thì bị cáo còn phải chịu thêm tiền lãi của số tiền chưa thi hành tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 02 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 06, 07 và 09 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản sao Bản án hoặc ngày Bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội trộm cắp tài sản và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:211/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về