Bản án 211/2020/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 211/2020/HS-ST NGÀY 18/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 224/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 242/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 9 năm 2020, đối với:

1. Bị cáo: Huỳnh Thị Ngọc Th, sinh năm 1980 tại Bà Rịa-Vũng Tàu. Hộ khẩu thường trú: 110/x đường N, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Chỗ ở: 110/x đường N, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Huỳnh Ngọc S (đã chết), mẹ: Nguyễn Thị H; Chồng: Phạm Ngọc Đức Th và có hai người con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2016.

Tiền sự: không.

Tiền án: Bản án số 161/2016/HS-ST của TAND TP Vũng Tàu xử 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 175/2017/HS-ST ngày 11-09-2017 của TAND thành phố V xử 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Nhân thân: Năm 2009 bị Công an Phường B và năm 2015 bị Công án phường N, thành phố V xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”; Bản án số 32/2013/HS-ST ngày 05-02-2013 của Tòa án nhân dân thành phố V xử phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị bắt ngày 04 tháng 6 năm 2020. (có mặt) 2. Bị hại: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1995. Địa chỉ: 459/x đường Đ, Phường 7, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lê Đổng Thoại A, sinh năm 1982. Địa chỉ: 1xx đường L, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

- Anh Phạm Ngọc Đức T, sinh năm 1975. Địa chỉ: 110/6x đường N, Phường B, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 7 giờ 30 ngày 04-06-2020, Huỳnh Thị Ngọc Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 72C2-236.58 đi chợ. Khi đi qua dãy phòng trọ địa chỉ 459/2x đường Đ, Phường B, thành phố V thì thấy phòng số 1 khép hờ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Th điều khiển xe đậu trước dãy phòng trọ, sau đó đi bộ vào trong phòng số 1 thấy anh Nguyễn Đức T đang ngủ. Th lén lút vào phòng trọ lấy 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi và 02 bóp da, bên trong có 900.000đ. Th mang điện thoại di động đến cửa hàng điện thoại địa chỉ 12x đường L, Phường B, thành phố V do anh Lê Đổng Thoại A là chủ, bán với giá 2.300.000đ. Sau đó Th mang toàn bộ tài sản về nhà cất giấu.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi, 3.100.000đ tiền thu chiếm đoạt của anh Tôn và tiền bán điện thoại cho anh An; 01 chiếc xe mô tô BKS 72C2-236.58.

Căn cứ Bản kết luận định giá tài sả số 91/KL-HĐĐG-TTHS ngày 19-6- 2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố V xác định chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi màu xanh trị giá 2.500.000đ.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi, anh Lê Đổng Thoại A không biết tài sản do phạm tội mà có, 900.000đ đã được Cơ quan Điều tra Công an thành phố V thu hồi giao trả cho anh Nguyễn Đức T và giao trả cho anh A 2.300.000đ. Anh T và anh A không có ý kiến, yêu cầu gì trong vụ án.

Đối với 01 chiếc xe mô tô BKS 72C2-236.58 Cơ quan Điều tra Công an thành phố V đã giao trả cho chủ sở hữu là anh Phạm Ngọc Đức Th (chồng bị cáo). Anh Th không có ý kiến, yêu cầu gì trong vụ án.

Bản cáo trạng số 229/CT-VKS ngày 27-8-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố V truy tố bị cáo Huỳnh Thị Ngọc Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Huỳnh Thị Ngọc Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 02 đến 03 năm tù; về vật chứng: đã xử lý xong; về trách nhiệm dân sự: đã giải quyết xong.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và lời khai của bị hại, của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở xác định: Bị cáo Huỳnh Thị Ngọc Th hiện đang có 02 tiền án về hành vi chiếm đoạt tài sản. Vào khoảng 7 giờ 30 ngày 04-6-2020, tại phòng trọ số 1, địa chỉ 459/2x đường Đ, Phường B, thành phố V, Huỳnh Thị Ngọc Th có hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Đức T 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi trị giá 2.500.000đ và 02 bóp da, bên trong có 900.000đ. Tổng giá trị tài sản mà Th chiếm đoạt là 3.400.000đ (Ba triệu bốn trăm ngàn đồng). Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Huỳnh Thị Ngọc Th phạm tội “Trộm cắp tài sản” với tình tiết định khung tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân rất xấu, nhiều lần có hành vi trộm cắp tài sản, trong đó đang có 2 tiền án về hành vi trộm cắp tài sản lại tiếp tục phạm tội cho thấy xem thường pháp luật. Do đó, cần phải xử phạt thật nghiêm nhằm răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo đồng thời có tác dụng phòng ngừa chung.

[4] Tuy nhiên, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[5] Xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

[6] Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

[7] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với bị cáo về phần tội danh, điều luật và mức hình phạt áp dụng là có căn cứ phù hợp với các tình tiết của vụ án nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thị Ngọc Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Huỳnh Thị Ngọc Th 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 04-6-2020.

2. Xử lý vật chứng: Đã xử lý xong.

3. Trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

4. Án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

270
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2020/HS-ST ngày 18/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:211/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về