Bản án 211/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TN, TỈNH TN

BẢN ÁN 211/2019/HSST NGÀY 21/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 5 năm 2019, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố TN, tỉnh TN xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 213/2019/HSST, ngày 09 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 226/2019/QĐXXST-HS ngày 26/4/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, Sinh ngày 18/8/1973; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ B, Phường TL, thành phố TN, tỉnh TN ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông: Nguyễn Văn H1, sinh năm 1947 và con bà Ngô Thị H2, sinh năm 1948; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Đinh Bích N, sinh năm 1976 ( đã ly hôn); Con có 01 con sinh năm 1998;

Tiền án: Không; Tiền sự: không;

Nhân thân: Tại bản án số 137/HSST ngày 28/6/2004 của Tòa án nhân dân tỉnh TN xử phạt 8 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Trại giam Công an tỉnh TN từ ngày 26/12/2018 đến nay). (Có mặt tại phiên tòa).

Ngƣời chứng kiến:

- Ông Bùi Đình T, sinh năm 1956. (vắng mặt). HKTT: Tổ H, Phường TL, thành phố TN, tỉnh TN.

- Bà Trần Thị T1, sinh năm 1959. (Vắng mặt) HKTT: Tổ M, Phường TL, thành phố TN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 22 giờ 45 phút ngày 25/12/2018, tổ công tác của Công an Phường TL làm nhiệm vụ kiểm tra cơ sở cho thuê lưu trú, kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự tại nhà nghỉ “Trường Sinh” thuộctổ M, Phường TL, thành phố TN, khi kiểm tra phòng số 201 của nhà nghỉ “Trường Sinh” thì có một người đàn ông ra mở cửa phòng. Tổ công tác tiến hành kiểm tra hành chính, người đàn ông này khai tên là Nguyễn Văn H. Quá trình kiểm tra phát hiện trên giường trong phòng 201 có một gói giấy bạc bên trong có chứa chất bột màu trắng và 1/2 (một phần hai) viên nén mầu hồng. H khai nhận là ma túy của Hưng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Hồi 10 giờ ngày 26/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố TN tiến hành mở niêm phong và cân xác định khôi lượng số chât bôt màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn H là 0,226 gam và 1/2 (một phần hai) viên nén mầu hồng có khối lượng là 0.056 gam và niêm phong toàn bộ vật chứng gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 205/KL-PC09 ngày 03/01/2019 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh TN kết luận: Chất bột màu trắng trong mẫu H1 gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,226 gam và 1/2 ( một phần hai) viên nén mầu hồng trong mẫu H2 gửi giám định là chất ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,056 gam.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận: H là người nghiện ma túy, vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 25/12/2018, Hưng một mình từ nhà thuộc Tổ B, Phường TL, thành phố TN đến khu vực bến xe khách TN cũ thuộc phường QT, thành phố TN với mục đích mua Heroine sử dụng cho bản thân. Tại đây H mua của một người đàn ông tên H3( không rõ lai lịch, địa chỉ) một gói heroine và 1/2 viên Hồng phiến với giá 150.000 đồng. Sau khi mua được ma túy H một mình đi đến nhà nghỉ “Trường Sinh” thuộc tổ M, Phường TL, thành phố TN thuê phòng 201 mục đích để tắm và sử dụng ma túy, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an Phường TL phát hiện, bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại bản cáo trạng số 216/CT-VKSTPTN ngày 09/4/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm i, khoản 1 Điều 249 BLHS.

Kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng : Điểm i, khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 BLHS 2015 xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn H từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 xử lý vật chứng theo quy định.

- Áp dụng Điều 136 BLTTHS 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo H phải nộp án phí HSST vào ngân sách nhà nước.

Trong phần tranh luận bị cáo H không tranh luận gì với bản luận tội của Viện kiểm sát.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo H nói lời sau cùng xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an, cơ quan Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên thành phố TN trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, lời khai của người chứng kiến, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Với chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở kết luận: Hôi 22 giờ 45 phút ngày 25/12/2018, tại phòng nghỉ số 201 nhà nghi “Trường Sinh” khu vực tổ M, Phường TL, thành phố TN, tỉnh TN, Nguyễn Văn H đang có hành vi tàng trữ 0,226 gam heroine và 0,056 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện và bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 BLHS năm 2015.

Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố TN truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt viện dẫn là hoàn toàn có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Điều 249 BLHS quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy ...thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a)...

i) Có hai chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này

[3] Xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi ma túy hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân phát sinh tội phạm và các tệ nạn xã hội khác, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước.Việc đưa ra xét xử đối với bị cáo là cần thiết để răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Hội đồng xét xử thấy: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Văn H có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo có mẹ được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo xét cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng, cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt và có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 249 BLHS, nhưng xét thấy bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không nghề nghiệp, mua ma túy về sử dụng không mang tính chất vụ lợi. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu huỷ 01 bì niêm phong kí hiệu H1

[7] Án phí; Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[8] Về nguồn gốc số ma túy bị thu giữ, theo Nguyễn Văn H khai đã mua của một người đàn ông tên là H3, không rõ lai lịch, địa chỉ. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của người này nên Cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ để xử lý.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm i, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 BLTTHS năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 18 ( mười tám) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ bắt tạm giữ, tạm giam 26/12/2018.

Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Văn H 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS năm 2015, Điều 106 BLTTHS năm 2015 :

Tịch thu tiêu hủy 01 bì niêm phong kí hiệu H1. (Vật chứng hiện đang lưu giữ bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố TN, biên bản giao nhận vật chứng số 304 ngày 16/5/2019.)

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016, buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

201
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2019/HSST ngày 21/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:211/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:21/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về