Bản án 211/2019/HSPT ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 211/2019/HSPT NGÀY 08/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 195/2019/TLPT-HS ngày 11 tháng 6 năm 2019, đối với bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án sơ thẩm số: 23/2019/HS-ST ngày 09/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Lê Văn T (tên gọi khác: Tr), sinh năm 1993, tại tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: TDP 1, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị H1; tiền án: 01 tiền án, theo Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 25/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk đã xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 30/2011/HSPT ngày 24/02/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và Bản án hình sự phúc thẩm số 79/2011/HSPT ngày 28/3/2011 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/3/2019 cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 27/02/2019 Lê Văn T (tên gọi khác: Tr) sinh năm 1993, trú tại: TDP 1, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk đến nhà anh Nguyễn Bảo T1 sinh năm 1970, trú tại TDP 5, thị trấn QP, huyện C, tỉnh Đắk Lắk rủ anh T1 đến nhà anh Nguyễn Văn H2 sinh năm 1982, trú tại: T15, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk chơi thì anh T1 đồng ý. Anh T1 điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47H1-086.76 của mình chở T đến nhà anh H2 chơi và uống rượu tại đây. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày anh T1 về trước và để xe mô tô biển kiểm soát 47H1-086.76 lại cho T mượn về sau. Khoảng 16 giờ cùng ngày T điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47H1-086.76 về nhà ở thị trấn QP. Khi đi đến trước nhà anh Nguyễn Văn H3 sinh năm 1977, trú tại Thôn TS, xã E1, huyện C, tỉnh Đắk Lắk thấy nhà anh H3 đóng cửa, không có ai ở nhà nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T dựng xe mô tô bên lề đường rồi leo qua hàng rào lưới B40 đột nhập vào nhà anh H3. Khi vào đến sân nhà, T thấy phía sau nhà có phơi tiêu hạt, T đã dùng bàn cào (có sẵn ở sân) gom tiêu lại rồi dùng tay hốt vào trong một chiếc bao màu trắng xanh (loại bao đựng phân bón, hiệu Bình Điền) lấy ở sân nhà anh H3, hốt được 32 kg tiêu hạt. Khi chuẩn bị bê bao tiêu ra ngoài, T thấy bên sân nhà anh H3 có một bao màu đỏ bên trong đựng 05kg tiêu hạt khô thì T lấy bao tiêu này cho vào bao tiêu màu trắng xanh rồi bê ra ngoài theo đường đã vào ban đầu. Khi T ra chỗ để xe và đặt bao tiêu lên phía trước xe thì bị anh Nguyễn Văn Tr sinh năm 1985, trú tại Thôn TS, xã E1, huyện C, tỉnh Đắk Lắk phát hiện nên T đã bỏ chạy để lại xe mô tô biển kiểm soát 47H1-086.76 và 37kg tiêu hạt vừa lấy được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 14/KL-HĐĐGTS, ngày 28 tháng 02 năm 2019 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện C đã kết luận: 32 kg tiêu hạt (tiêu phơi một nắng, vỏ tiêu đã nhăn lại và chuyển sang màu đen) có giá 32kg x 20.000đ/kg = 640.000đ; 05 kg tiêu hạt khô có giá 05kg x 43.000đ/kg =215.000đ. Tổng giá trị tài sản là 855.000đ (Tám trăm năm mươi lăm nghìn đồng).

Tại bản án số 23/2019/HS-ST ngày 09/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 01/3/2019.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về phần xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/5/2019, bị cáo Lê Văn T kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa các bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt ở trên.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Xét mức hình phạt 09 tháng tù đối với bị cáo là tương xứng tính chất mức độ do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, khi quyết định hình phạt cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 23/2019/HS-ST ngày 09/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo T không tranh luận, bào chữa gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo Lê Văn T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập lưu tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đầy đủ căn cứ pháp lý để kết luận: Vào khoảng 16 giờ ngày 27/02/2019, bị cáo đã thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn H3, trú tại: Thôn TS, xã E1, huyện C, tỉnh Đắk Lắk 37kg tiêu hạt các loại, giá trị tài sản do bị cáo trộm cắp được xác định là 855.000đ (Tám trăm năm mươi lăm nghìn đồng). Mặc dù tài sản do bị cáo trộm cắp có giá trị dưới 2.000.000đ, song tại Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 25/8/2016 bị cáo Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo lại tiếp tục vi phạm. Do đó, Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar đã xét xử bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, hội đồng xét xử nhận thấy: Mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo, là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra, bởi lẽ: Bị cáo đã hai lần bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, mặc dù đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, mà lại tiếp tục phạm tội có tính chất chiếm đoạt, hiện nay bị cáo đã chấp hành xong hình phạt của bản án hình sự sơ thẩm số 56/2016/HSST ngày 25/8/2016 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, chưa được xóa án tích, bị cáo lại thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, thể hiện bản tính ham chơi, lười lao động, coi thường pháp luật của bị cáo. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà cần giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 23/2019/HS-ST ngày 09/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk, đối với bị cáo về hình phạt.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn T - Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 23/2019/HS-ST ngày 09/5/2019 của Tòa án nhân dân huyện Cư M’gar, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173 và các điểm h, s khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 01/3/2019).

[3] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2019/HSPT ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:211/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về