TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 211/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 29 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 111/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thùy L, sinh năm 1995; nơi cư trú: Ấp Q, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Ông Trương Minh T, sinh năm 1991; nơi cư trú: ấp A, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà L có mặt, ông T vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện, bản tự khai cùng với các tài liệu và chứng cứ kèm theo của nguyên đơn bà Nguyễn Thùy L trình bày: Bà và ông Trương Minh T tự tìm hiểu yêu thương, được gia đình hai bên đứng ra tổ chức đám cưới vào năm 2017 nhưng đến nay không có đăng ký kết. Sau khi đám cưới bà sống bên chồng, bà làm dâu được khoảng 10 tháng thì về nhà mẹ ruột sống. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông T không chăm lo cho cuộc sống gia đình, vợ chồng thường hay tranh cãi, bất đồng quan điểm sống. Nhận thấy bà với ông T đã không còn tình cảm và không thể chung sống, vì vậy bà yêu cầu được ly hôn với ông T.
Về con chung: Bà và ông T có một con chung tên Nguyễn Thiên Â, sinh ngày 16/12/2018, con chung hiện đang sống với bà từ khi hai người không còn sống chung. Bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Â, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông T theo quy định nhưng ông T vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú ông T để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Chứng cứ mà Tòa án thu thập được: Tại biên bản xác minh nơi cư trú ngày 16/4/2019, được ông Nguyễn Văn L – trưởng Công an xã K cho biết, hiện nay ông T vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp A, xã K, huyện A, tỉnh An Giang, ông T vẫn thường hay đi đi về về nhưng không rõ là đi đâu.
Về chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.
Quan điểm Kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong việc ghi lời khai, hòa giải, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Về nội dung vụ án Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Xét yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Nguyễn Thùy L khởi kiện yêu cầu xin ly hôn với ông Trương Minh T, xác định quan hệ tranh chấp “Hôn nhân và gia đình, xin ly hôn”, bà L là nguyên đơn, ông T là bị đơn. Ông T có nơi cư trú tại ấp A, xã K, huyện A, tỉnh An Giang nên xét thuộc thẩm quyền thụ lý và giải quyết của Tòa án theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Căn cứ vào các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời trình bày của các đương sự trong quá trình tố tụng thể hiện: Năm 2017, bà L, ông T được gia đình hai bên tổ chức đám cưới nhưng không đăng ký kết hôn. Việc trình bày của bà L phù hợp với giấy xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Q vào ngày 13/3/2019 nên hôn nhân giữa bà L, ông T không có giá trị pháp lý theo quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Hội đồng xét xử không công nhận bà Nguyễn Thùy L và ông Trương Minh T là vợ chồng là có căn cứ.
[3] Về con chung: Bà L, ông T có 01 con chung Nguyễn Thiên Â, sinh ngày 16/12/2018. Hiện nay con chung do bà L đang nuôi dạy. Bà L yêu cầu đươc tiếp tục nuôi con. Xét thấy, cháu  đang sống với bà L. Cháu  dưới 36 tháng tuổi, theo khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình thì con dưới 36 tháng tuổi giao cho mẹ nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo cho sự phát triển tâm sinh lý bình thường và điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận để cho bà L tiếp tục nuôi dạy cháu  là phù hợp.
Về cấp dưỡng: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Bà L không yêu cầu cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà L.
Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết: Bà L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
[4] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà L tự thỏa thuận về tài sản chung, nợ chung bà L xác định không có. Do ông T vắng mặt nên Tòa án không xem xét nếu sau này các đương sự có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.
[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30 tháng 12 năm 2016, bà Linh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 9, 14, 15, 53, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thùy L
Không công nhận bà Nguyễn Thùy L và ông Trương Minh T là quan hệ vợ chồng.
Về con chung: Bà L được tiếp tục nuôi con chung tên Nguyễn Thiên Â, sinh ngày 16/12/2018. Công nhận sự tự nguyện của bà L không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà L cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.
Về án phí: Bà Nguyễn Thùy L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0011187 ngày 19/3/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.
Bà L được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng ông T được quyền kháng cáo trong thời hạn trên kể từ khi nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án 211/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 211/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/05/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về