Bản án 211/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 211/2019/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 27/11/2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện N mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 134/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2019. Về vụ án kiện xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 72/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/10/2019; Quyết định hoãn phiên toà số 46/2019/QĐST-HNGĐ ngày 12/11/2019 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H-Sinh năm: 1983;

Địa chỉ: Đội 8, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.

- Bị đơn: Anh Đoàn Thanh S-Sinh năm: 1979;

Địa chỉ: Đội 8, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa có mặt chị H, anh S.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Trong đơn khởi kiện cũng như lời khai của nguyên đơn là chị Vũ Thị H trong quá trình giải quyết và tại phiên toà trình bày: Chị kết hôn với anh Đoàn Thanh S vào tháng 01 năm 2008 trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại UBND xã N. Sau khi được cấp đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, anh S không tu chí làm ăn thường xuyên chơi bời, cờ bạc, rượu chè về chửi bới vợ con, mặc dù chị và hai bên gia đình động viên khuyên giải nhưng anh S không thay đổi vì vậy tình cảm vợ chồng vẫn không được cải thiện chị đã có lần làm đơn xin ly hôn nộp ra xã cũng như trên Tòa nhưng được động viên và anh S hứa sẽ thay đổi lên chị đã rút đơn, nhưng chỉ được một thời gian đâu lại vào đấy. Do không thể hàn gắn được vợ chồng ly thân nhau từ tháng 6/2019. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh S là không còn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị đề nghị Tòa án nhân dân huyện N xem xét giải quyết cho chị được ly hôn anh Đoàn Thanh S.

Về con chung: Chị Vũ Thị H xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Đoàn Hải Đ sinh ngày 11/11/2008. Kể từ khi vợ chồng ly thân con chung đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Vợ chồng ly hôn chị xin nhận trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu anh S đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Về tài sản chung: Chị Vũ Thị H thống nhất xác định vợ chồng có nhưng tự vợ chồng giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm chị H đề nghị giải quyết theo quy định.

Tại phiên tòa hôm nay cũng như lời khai tại các buổi làm việc bị đơn anh Đoàn Thanh S thể hiện: Anh xác định việc chị H khai về thời gian kết hôn giữa chị H với anh là đúng, vợ chồng được UBND xã N cấp đăng ký kết hôn vào tháng 01 năm 2008. Sau khi được cấp đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn lớn mà chỉ có mâu thuẫn nhỏ. Nguyên nhân là do anh có hay tụ tập bạn bè uống rượu, năm 2018 chị H có đơn xin ly hôn nhưng được hòa giải, vợ chồng về đoàn tụ. Vợ chồng ly thân nhau từ tháng 6/2019. Nay chị H có đơn xin ly hôn quan điểm của anh không muốn vợ chồng ly hôn vì muốn con có cả bố và mẹ. Về con chung anh S thống nhất xác định vợ chồng có 01 con chung là cháu Đoàn Hải Đ sinh ngày 11/11/2008. Kể từ khi vợ chồng ly thân con chung đang do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Vợ chồng ly hôn anh xin nhận trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu chị H đóng góp cấp dưỡng nuôi con hàng tháng cùng anh.

Về tài sản chung: Anh Đoàn Thanh S thống nhất xác định vợ chồng có nhưng tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm anh S đề nghị giải quyết theo quy định.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

* Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử tại phiên toà hôm nay Thẩm Phán thụ lý giảỉ quyết cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

* Về nội dung:

-Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị H xác định mâu thuẫn trầm trọng có đơn xin ly hôn anh Đoàn Thanh S, phía anh S thống nhất mâu thuẫn vợ chồng có phát sinh nhưng không nhất trí ly hôn vì con còn nhỏ. Xét mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh S đã trầm trọng khả năng đoàn tụ không còn vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Luật hôn nhân gia đình xử ly hôn giữa chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S.

- Về con chung: Chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S xác định vợ chồng có 01 con chung là Đoàn Hải Đ sinh ngày 11/11/2008 kể từ khi vợ chồng ly thân con chung đang do chị H nuôi dưỡng, vợ chồng ly hôn chị H và anh S đều có nguyện vọng xin nhận trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu bên kia phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung, cháu Đ có nguyện vọng ở với mẹ thấy có căn cứ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng và anh S không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H. Về tài sản chung chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên chị H phải nộp theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S đều đăng ký hộ khẩu và hiện có địa chỉ thường trú tại xã N, huyện N, tỉnh Nam Định. Chị H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện N giải quyết vụ án của anh chị được Tòa án nhân dân huyện N thụ lý giải quyết vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S vào tháng 01 năm 2008 được UBND xã N cấp đăng ký kết hôn là một hôn nhân tự do, tiến bộ và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn vợ chồng đã có thời gian chung sống hạnh phúc. Sau đó mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát. Mặc dù được gia đình hai bên khuyên giải nhưng không thành, vợ chồng đã nhiều lần có đơn xin ly hôn. Nay chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án nhân dân huyện N giải quyết vợ chồng được ly hôn, anh S xác định mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng nhưng anh không nhất trí ly hôn vì lý do muốn con có cả bố và mẹ. Hội đồng xét xử thấy: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh S đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đã nhiều lần vợ chồng làm đơn xin ly hôn cơ hội đoàn tụ không còn, nay chị H có đơn xin ly hôn xét thấy có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S đều thống nhất xác định vợ chồng có một con chung là Đoàn Hải Đ sinh ngày 11/11/2008. Chị H và anh S đều có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu bên kia phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi con chung của chị H và anh S thấy kể từ khi vợ chồng ly thân con chung đang do chị H nuôi dưỡng, bản thân cháu Đ cũng có nguyện vọng được ở với mẹ. Mặt khác tại phiên toà anh S cũng xác định anh thường xuyên đi làm ăn xa vì vậy giao con cho chị H trực tiếp nuôi con là phù hợp với quy định Khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân gia đình.

Xét nguyện vọng không yêu cầu anh S đóng góp cấp dưỡng nuôi cháu Đ của chị H thấy là hoàn toàn tự nguyện không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật được chấp nhận.

[4] Về tài sản chung: Chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S thống nhất không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm chị Vũ Thị H phải nộp theo quy định của pháp luật.

[6] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện N về việc giải quyết vụ án là phù hợp.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ các Điều 147, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 6 và 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

1-Xử ly hôn giữa chị Vũ Thị H và anh Đoàn Thanh S.

2-Về con chung: Xử giao cháu Đoàn Hải Đ sinh ngày 11/11/2008 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh S không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con cùng chị H. Không ai được ngăn cản quyền chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và thăm nom con chung.

3-Án phí dân sự sơ thẩm chị Vũ Thị H phải nộp 300.000đ, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai số BB/2012/06419 ngày 07/8/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện N, chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Án xử công khai sơ thẩm có mặt nguyên đơn, bị đơn. Báo cho người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

190
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 211/2019/HNGĐ-ST ngày 27/11/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:211/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nam Trực - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về