Bản án 210/2021/HS-PT ngày 23/04/2021 về tội giết người, chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng

 TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 210/2021/HS-PT NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI, CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ VÀ GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 249/2021/TLPT-HS ngày 11 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo Vũ Văn V, Vũ Văn L (Vũ Tùng L), Nguyễn Phi L1, Đinh Khắc H (B), Đinh Khắc H1 do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/20021/HS-ST ngày 28 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Vũ Văn V, sinh ngày 05/12/1987 tại tỉnh Hải Dương. Nơi ĐKTT: tỉnh Kon Tum. Nơi cư trú: tỉnh Kon Tum; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Vũ Văn M, sinh năm 1964 và bà Đinh Thị T, sinh năm 1966; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 12/6/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Kon Tum xử phạt 18 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Ngày 30/10/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Kon Tum xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Ngày 31/8/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Kon Tum xử phạt 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Đến ngày 30/4/2015, thì chấp hành xong hình phạt tù về sinh sống tại địa phương.

Ngày 17/5/2019, bị Công an huyện Đ ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Đánh bạc”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/9/2019 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

2. Vũ Văn L (Tên gọi khác: Vũ Tùng L), sinh ngày 16/02/1994, tại tỉnh Hải Dương. Nơi ĐKTT: Tổ dân phố 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Nơi cư trú: Tổ dân phố 7, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Vũ Văn M, sinh năm 1964 và bà Đinh Thị T, sinh năm 1966; có vợ là Lê Thị Hoài N, sinh năm 1997. Bị cáo có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2015 và nhỏ nhất sinh năm 2018.

Tiền án: 01 tiền án: Ngày 22/6/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xử 08 tháng tù nhung cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 tháng tù tính từ ngày tuyên án (22/6/2018) về tội “Đánh bạc”, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2019 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Phi L1, sinh ngày 15/9/1991, tại tỉnh Kon Tum. Nơi cư trú: Tổ dân phố 3B, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Nguyễn Phi T (đã chết) và bà Phan Thị M, sinh năm 1963; có vợ là Trần Thị u, sinh năm 2000. Bị cáo có 01 người con, sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 26/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Đ xử 03 năm 7 tháng 4 ngày về tội “Trộm cắp tài sản” và “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2019 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

4. Đinh Khắc H1 (Tên gọi khác: Rin), sinh ngày 02/6/1992 tại tỉnh Kon Tum. Nơi cư trú: Tổ dân phố 4A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông Đinh N, sinh năm 1967 và bà Trần Thị c, sinh năm 1966; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2016 bị Công an huyện Đ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” với số tiền phạt 2.500.000 đ ngày 28/7/2016 bị cáo đã nộp phạt.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2019 đến ngày 26/3/2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn cho “bảo lĩnh” đến nay; có mặt tại phiên tòa.

5. Đinh Khắc H (Tên gọi khác: B), sinh ngày 03/7/1994 tại tỉnh Kon Tum. Nơi cư trú: Tổ dân phố 4A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 6/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Đinh N, sinh năm 1967 và bà Trần Thị C, sinh năm 1966; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/9/2019 cho đến nay; có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia tố tụng khác:

Người bào chữa cho bị cáo Vũ Văn V và Vũ Văn L: Ông Đinh V H - Luật sư của Văn phòng luật sư H, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Kon Tum. Địa chỉ: số 592 Nguyễn Huệ, thành phố Kon Tum, tỉnh Kon Tum (Có mặt).

Ngoài ra, trong vụ án còn có người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ Liên quan; người làm chứng không Liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18h00 ngày 25/9/2019, Nguyễn Phi L1 (sinh năm 1991, trú tại tổ dân phố 3B, thị trấn Đ) có mời Vũ Văn V, Vũ Văn L (trú tại tổ dân phố 7, thị trấn Đ), Lưu Xuân M (trú tại tổ dân phố 4B, thị trấn Đ), Lưu Xuân V (trú thôn 3, xã Đ, huyện Đ), Đinh Khắc H1 (trú tại tổ dân phố 4A, thị trấn Đ), Đinh Khắc H (trú tại tổ dân phố 4A, thị trấn Đ), Ngô V T (trú tại tổ dân phố 3A, thị trấn Đ), Nguyễn Cảnh T (trú tại tổ dân phố 3B, thị trấn Đ), Phạm Công L (trú tại tổ dân phố 5, thị trấn Đ), Lê Thị Thu T (trú tại tổ dân phố 4A, thị trấn Đ), Lê Thị Hoài N (là vợ L), Trần Thị U (là vợ L1), Nguyễn Thị Thu H (là vợ M) đến Liên hoan sinh nhật của Nguyễn Phi L1 tại quán M (thuộc tổ dân phố 2A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum). Sau khi ăn uống xong, đến khoảng 20h30’ cùng ngày cả nhóm đến quán Karaoke S (thuộc tổ dân phố 3A, thị trấn Đ) để hát karaoke. Đến khoảng 21h30’ cùng ngày cả nhóm đi về, khi đi ra phía trước quán Trần Thị u (vợ L1) đang bế con thì anh Lê Tấn T (trú tại tổ dân phố 2B, thị trấn Đ) có chọc cháu bé con L1. Thấy vậy L1 cho rằng anh T chọc ghẹo vợ mình nên đã dùng tay chân đánh đá anh T. Nguyễn Cảnh T đứng ở gần đó cũng lao vào dùng tay đấm anh T. Khoảng 21h50 cùng ngày, ông Võ Bá L - Trưởng Công an thị trấn Đ nhận được tin báo của quần chúng nhân dân về việc trước quán Karaoke S xảy ra vụ việc đánh nhau nên ông L điện thoại thông báo cho ông Nguyễn V H - Phó trưởng Công an thị trấn đang trực tại cơ quan. Ông Nguyễn V H đã cử anh Phạm Xuân B và anh Trịnh H T (là cán bộ công an thị trấn được phân công trực ngày 25/9/2019) đến điểm Karaoke S để xác minh và giải quyết vụ việc. Khi đi thực hiện nhiệm vụ hai đồng chí mặc trang phục Công an nhân dân, mỗi người mang theo 01 súng bắn đạn cao su (dạng súng Rulo), 01 gậy nhựa, 01 còi. Khi anh Biển và anh T đến khu vực quán Karaoke S thì Lưu Xuân M và Nguyễn Phi L1 đã có hành vi cản trở anh B và anh T, M và L1 dùng tay đấm vào mặt anh Biển. Thấy vậy anh B đã rút súng bắn đạn cao su bắn chỉ thiên hai phát nhưng đạn không nổ, đến phát thứ 3 súng nổ thì L1 tiếp tục lao vào đánh anh Biển, anh B chạy vào trong quán thì L1 dùng tay đấm vào người anh B 2-3 cái, T đuổi theo dùng tay đấm vào đầu anh B. Do bị tấn công bất ngờ nên anh Biển chạy ngược ra ngoài thì bị Lưu Xuân M đang đứng ở gần cửa dùng chân đạp vào bụng làm anh B ngã xuống sàn quán, sau đó đứng dậy và chạy ra ngoài.

Vũ Văn V đang ở nhà thì nghe điện thoại báo tin có đánh nhau ở quán Karaoke S nên V lấy một thanh kiếm mang theo rồi nhờ Đinh Khắc H sử dụng xe mô tô biển kiểm soát 82 HI-081.82 của Lưu Xuân M chở đến quán Karaoke S. Khi anh B bị L1 và M đánh thì L dùng tay đánh vào mặt và người anh T. Lúc này V đến trước quán thấy Vũ Văn L (em trai V) đang ôm và dùng tay đánh vào mặt anh Trịnh H T từ phía sau nên V dùng tay phải rút kiếm ra khỏi vỏ, lao đến chém liên tiếp hai phát từ trên xuống vào đầu và người anh T. Lúc đó anh T đang đội mũ bảo hiểm nhưng bị V chém làm vỡ mũ bảo hiểm, lưỡi kiếm cắt đứt phần xốp bảo vệ và gây nứt xương sọ. V tiếp tục lao vào, tay trái giữ tay phải của anh T, tay phải cầm kiếm vung lên chém hai phát trúng vào lưng anh T. Lúc này Vũ Văn L dùng tay giật gậy nhựa từ anh T, đánh vào đầu anh T làm phần nhựa của mũ bảo hiểm rơi xuống. Sau đó anh T chạy vào hành lang phía trong bên phải quán Karaoke, V và L tiếp tục đuổi theo, V dùng tay trái giữ tay phải đang cầm súng của anh T, tay phải cầm kiếm vung lên chém 2 phát trúng vào phần bắp tay phải và bả vai phải của anh T còn L cầm gậy chạy theo đánh nhiều phát vào đầu, vào vai anh T. Khi chạy đến cuối hành lang thì anh T chạy ngược trở lại, V và L vẫn tiếp tục đuổi đánh. Tại đây, V giằng co để giật khẩu súng của anh T nhưng lúc đó anh Ngô Viết H (trú tại tổ dân phố 3A, thị trấn Đ) can ngăn nên V bỏ kiếm xuống và chưa giật được súng. Anh T tiếp tục chạy ngược lại vào phòng pha chế phía sau quầy tính tiền thì V tiếp tục đuổi theo vào trong phòng pha chế và dồn anh T vào góc tường, dùng tay đấm vào mặt và giật súng bắn đạn cao su của anh T. Lúc này điện quán Karaoke bị tắt nên V cầm súng bỏ đi ra ngoài.

Khi xảy ra xô xát, L1 có bị thương ở trán nên nhờ Đinh Khắc H dùng xe mô tô chở đến Trung tâm y tế huyện Đ để sơ cứu. Một lúc sau M cùng u và H đi đến Trung tâm y tế huyện Đ.

Sau khi bị các đối tượng đuổi đánh anh B chạy được ra khỏi quán Karaoke và gọi điện thoại cho ông H (đang trực tại Công an thị trấn) báo cáo tình hình và xin hỗ trợ. Ông H cử anh Đoàn Mạnh V đến quán Karaoke để hỗ trợ. Anh V đến nơi thì thấy anh T bị thương nặng nên đã đưa anh T đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Đ. Tại đây L1 đang được y tá kiểm tra vết thương, khi nhìn thấy anh V và anh T đi vào phòng cấp cứu thì H và M đã cản lại. H dùng hai tay cầm xe lăn ném vào người anh T. Nguyễn Phi L1, Lưu Xuân M và Đinh Khắc H xảy ra xô xát với anh Đoàn Mạnh V. L1 xông vào giằng chiếc gậy nhựa trên tay anh V, H1 giữ tay và ôm anh V để cho L1 dùng gậy đánh vào đầu sau đó L1 dùng tay gạt mũ bảo hiểm của anh V rơi xuống, gậy nhựa cũng rơi xuống, H nhặt gậy nhựa lên và đánh vào bả vai anh V, trong lúc H1 đang ôm giữ anh V từ phía sau thì H dùng gậy nhựa thúc vào mặt anh V, sau đó M, H1 ôm giữ anh V còn L1 lấy gậy từ tay H đánh liên tiếp vào đầu, vai anh V. Thấy vậy, Trần Thị u đến ôm can Nguyễn Phi L1 còn Lưu Xuân M, Đinh Khắc H tiếp tục dùng tay, chân đánh anh V, cùng lúc đó Lưu Xuân V, Nguyễn V Hoài Đ (trú tại thôn 3, xã Đ), Lê V Q ( trú tại thôn 1, xã Đ), Mai Quang T (trú tại thôn 3, xã Đ, huyện Đ) đi đến Trung tâm y tế huyện Đ. Lưu Xuân V thấy anh V và Lưu Xuân M đang giằng co nhau thì V tiến lại giữ tay anh V và M, đồng thời dùng tay đánh vào mặt anh V, còn M dùng chân đá vào ngực anh V rồi cả nhóm đi về nhà M tại tổ dân phố 4B, thị trấn Đ. Trong quá trình xô xát, lực lượng bác sỹ, y tá tại khu vực cấp cứu của Trung tâm y tế sợ hãi bỏ chạy ra ngoài nên phải ngừng mọi hoạt động cấp cứu bệnh nhân.

Khi M đi về nhà thì thấy T, V và Q đang ở nhà mình. Lúc này V đưa khẩu súng lấy được của anh T cho T nhờ cất dùm, sau đó T đưa khẩu súng cho Q. Q cầm súng đi cùng V về nhà V tại thôn 3, xã Đăk Mar và cất giấu khẩu súng tại bờ ao sau nhà rồi quay lại tiệm Internet của mình tại tổ dân phố 4B, thị trấn Đ. Do sợ bị phát hiện nên V rủ Q và quay về nhà lấy khẩu súng đã giấu ở bờ ao đem đến cất giấu tại khu vực sân phơi cà phê của nông trường 734 thuộc thôn 4, xã Đ. Q đến nhà M thì M nhờ Q sử dụng xe mô tô chở lên nhà chị gái là Lưu Thị Hồng M tại thôn 4, xã Đ, huyện Đ. Vũ Văn V và Nguyễn Phi L1 sử dụng xe mô tô mang biển kiểm soát 82H1-08182 (xe của Lưu Xuân M) đi đến trụ sở Công an thị trấn Đ để thắc mắc vì sao L1 bị thương ở đầu thì bị lực lượng Công an bắt giữ.

Tại bản kết luận giám định số 148/TgT-TTPY ngày 15/11/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Kon Tum kết luận đối với anh Trịnh H T như sau:

- Sẹo thái dương đỉnh phải + sẹo cổ bên phải + sẹo vùng bả vai bên phải + sẹo 1/3 trên mặt ngoài cẳng tay bên phải + sẹo 1/3 dưới mặt ngoài cẳng tay bên phải + sẹo 1/3 trên cánh tay bên trái + sẹo 1/3 giữa đùi bên phải, sẹo nhiều kích thước lớn: 13%.

- Nứt sọ đỉnh phải, chiều dài đỉnh nứt 3cm: 09%.

- Mẻ 1/3 dưới xương trụ phải; 02%.

- Đứt gân duỗi cổ tay trụ phải đã khâu nối, ảnh hưởng nhẹ đến động tác gấp duỗi ngón tay: 02%.

- Đứt 1 phần cơ trên gai vai phải + đứt cơ đenta vai phải + đứt cơ rộng ngoài đùi phải đã phẫu thuật khâu nối ổn định.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 23,96% làm tròn là 24% (Hai mươi bốn phần trăm).

Tại bản kết luận giám định số 151/TgT-TTPY ngày 21/11/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Kon Tum kết luận đối với anh Đoàn Mạnh V như sau:

Không thấy dấu tích tổn thương nông ở đầu; đụng giập nhãn cầu và tổ chức hố mắt bên trái, không ảnh hưởng đến thị lực: 01%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 01% (Một phần trăm).

Tại bản kết luận giám định số 152/TgT-TTPY ngày 21/11/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Kon Tum kết luận đối với anh Phạm Xuân B như sau:

Sẹo đốt gần ngón 5 bàn tay bên phải, sẹo ít kích thước nhỏ: 02%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể tại thời điểm giám định là 02% (Hai phần trăm).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:

1. Căn cứ: Điểm d, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn V phạm tội “Giết người”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn V 16 (Mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/9/2019.

2. Căn cứ: Điểm d, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; điểm e, h khoản 1 Điều 52; khoản 5 Điều 65; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn L phạm tội “Giết người”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn L 12 (Mười hai) năm tù.

Tổng hợp hình phạt của Bản án này với hình phạt 08 (Tám) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2018/HSST ngày 22/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Buộc bị cáo Vũ Văn L phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 12 (Mười hai) năm 08 (Tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/9/2019.

3. Căn cứ: Khoản 1 Điều 330; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Lưu Xuân M phạm tội “Chống người thi hành công vụ” và tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Xuân M 10 (Mười) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” và 26 (Hai mươi sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Lưu Xuân M phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là: 36 (Ba mươi sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/9/2019.

4. Căn cứ: khoản 1 Điều 330; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phi L1 phạm tội “Chống người thi hành công vụ” và tội “Gây rối trật tự công cộng ”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phi L1 02 (Hai) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ” và 03 (Ba) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Nguyễn Phi L1 phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là: 05 (Năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/9/2019.

5. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Khắc H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Khắc H 42 (Bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/9/2019.

6. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Khắc H1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Khắc H1 02 (Hai) năm tù, được trừ đi thời gian bị bắt tạm giữ, tạm giam (từ ngày 26/9/2019 đến ngày 26/3/2020), thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

7. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Lưu Xuân V phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt: Bị cáo Lưu Xuân V 18 (Mười tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng, tính từ ngày tuyên án (28/01/2021).

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

8. Căn cứ: Khoản 1 Điều 330; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô V T về tội “Chống người thi hành công vụ”.

Xử phạt: Bị cáo Ngô V T 15 (Mười lăm) tháng 28 (Hai mươi tám) ngày.

Căn cứ Điều 299 và khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên trả tự do cho bị cáo Ngô V T tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 03/02/2021, bị cáo Đinh Khắc H1 gửi đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm với các lý do: Từ trước đến nay chưa có tiền án, tiền sự; luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật; bản thân không gây thương tích cho người bị hại; đã thành khẩn khai báo nhận tội, ăn năn hối hận; tự nguyện bồi thường cho người bị hại 5.000.000đ, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, xin được giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình.

Ngày 08/02/2021, bị cáo Nguyễn Phi L1 gửi đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với các lý do: Mức hình phạt quá nặng so với hành vi phạm tôi, xin giảm án để sớm về với gia đình.

Ngày 08/02/2021, bị cáo Vũ Văn V gửi đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với các lý do: Bản án xử quá cao với bản thân; vì mục đích để bảo vệ em trai là L mà bản thân không làm chủ hành vi. Hiện tại gia đình rất khó khăn; bị cáo là trụ cột trong gia đình; xin giảm nhẹ hình phạt sớm về với gia đình chuộc lại lỗi lầm.

Ngày 09/02/2021, bị cáo Vũ Văn L gửi đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với các lý do: Bản thân bị cáo là trụ cột trong gia đình đang nuôi 02 con nhỏ; ông nội có công với nước; bố là thương binh; bản thân rất ăn năn hối hận về hành vi sai trái của mình; gia đình cũng đã chủ động đến thăm hỏi và bồi thường cho người bị hại 25.000.000đ.

Ngày 09/02/2021, bị cáo Đinh Khắc H gửi đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, với các lý do: Bản thân phạm tội lần đầu; hiểu biết pháp luật còn hạn chế; sau khi sự việc xảy ra bản thân rất ăn năn hối hận về hành vi sai trái của mình; gia đình cũng đã chủ động đến thăm hỏi và bồi thường cho người bị hại 5.000.000đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo Vũ Văn V, Vũ Văn L (Vũ Tùng L), Nguyễn Phi L1, Đinh Khắc H (Bom) giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Đinh Khắc H1 xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu quan điểm về vụ án cho rằng:

Về tố tụng, Hội đồng xét xử tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Về nội dung, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo là đúng người đúng tội. Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Vũ Văn V không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, nên không có cơ sở xem xét giảm nhẹ hình phạt; đối với các bị cáo Vũ Văn L (Vũ Tùng L), Nguyễn Phi L1, Đinh Khắc H (Bom) và Đinh Khắc H1 có cung cấp được một số tình tiết giảm nhẹ mới nên có cơ sở đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

Luật sư Đinh V Hiến bào chữa cho các bị cáo Vũ Văn V và Vũ Văn L nêu quan điểm: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo V và L đã thể hiện thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo nhận tội và tại phiên tòa sơ thẩm chưa áp dụng tình tiết giảm nhẹ người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Chỉ vì hiểu lầm anh Lê Tấn T chọc ghẹo vợ mình mà bị cáo L1 đánh anh T. Khi được lực lượng chức năng là Công an thị trấn Đ đến giải quyết sự việc thì các bị cáo có hành vi dùng hung khí là kiếm, gậy nhựa (công cụ hỗ trợ của Công an) cản trở và chống đối lại lực lượng thi hành công vụ. Hậu quả gây thương tích cho các anh Trịnh H T 24%, anh Phạm Xuân B 02% và anh Đoàn Mạnh V 01%; gây náo loạn mất trật tự trị an tại trước địa điểm Karaoke S thuộc tổ 3A, Đ và phòng cấp cứu Trung tâm y tế Đ. Với hành vi và hậu quả như trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo ở 03 nhóm tội: Bị cáo Vũ Văn V bị xử phạt 16 năm tù và bị cáo Vũ Văn L bị xử phạt 12 năm tù về tội “Giết người” theo điểm d, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Bị cáo Nguyễn Phi L1 bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” và 36 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 1 Điều 330 và điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đinh Khắc H bị xử phạt 42 tháng tù và bị cáo Đinh Khắc H1 bị xử phạt 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Vũ Văn V, thì thấy: Bị cáo là người trực tiếp dùng hung khí là thanh kiếm dài 50cm chém 2 nhát vào đầu anh T làm bể mũ bảo hiểm gây nứt hộp sọ. Sau đó chém tiếp 2 nhát vào lưng và 2 nhát vào bắp tay, bả vai anh T. Tại phòng cấp cứu bị cáo đấm vào mặt và giựt súng của anh T đưa súng cho T cất giấu. Sau đó còn chở bị cáo L1 đến Công an thị trấn Đ thắc mắc ăn vạ sao L1 bị thương tích. Mặc dù anh T không chết nhưng hành vi của bị cáo là rất manh động, côn đồ, đến cùng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm d, n khoản 1 Điều 123 (giết người đang thi hành công vụ và có tính chất côn đồ) có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù Chung thân hoặc Tử hình, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 như bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và một số tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 16 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới; bị cáo có nhân thân xấu; do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và lời bào chữa của luật sư; chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo V.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Văn L, thấy rằng: Bị cáo L khi thấy anh mình là V dùng kiếm chém anh T bị cáo không can ngăn mà còn ôm và đánh vào mặt anh T. Sau đó còn giựt gậy nhựa trên anh T là công cụ hỗ trợ được nhà nước trang bị cho Công an đánh vào đầu và vai anh T. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm d, n khoản 1 Điều 123 (giết người đang thi hành công vụ và có tính chất côn đồ) có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù Chung thân hoặc Tử hình, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1 như bồi thường thiệt hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và một số tình tiết giảm nhẹ khác tại khoản 2 Điều 51 ; điểm e, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo nhận tội; gia đình bị cáo luôn thăm hỏi động viên và bồi thường thỏa đáng cho người bị hại; bị cáo có ông nội tham gia cách mạng, cha là thương binh; bản thân là lao động chính đang nuôi 02 con nhỏ. Bị cáo phạm tội chưa đạt và có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng khoản 1 Điều 54 giảm nhẹ cho bị cáo dưới khung hình phạt để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và lời bào chữa của luật sư; chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo L.

[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Phi L1, thấy rằng: Bị cáo L1 là người vô cơ đấm đá anh T; khi anh B đến giải quyết sự việc, thì bị cáo đánh vào mặt anh B; lúc anh B bắn chỉ thiên nhưng bị cáo vẫn không dừng lại mà tiếp tục đánh anh B, anh B bỏ chạy bị cáo rượt theo đánh 2-3 cái. Tại phòng cấp cứu bị cáo tiếp tục xô xát với anh V, giựt gậy nhựa đánh vào đầu và vai anh V. Với hành vi như trên, tòa án sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 330 Bộ luật hình sự có khung hình phạt tù từ 06 tháng tù đến 03 năm tù và điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự (dùng hung khí) có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; một số tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo cả hai tội là 05 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bà Võ Thị Kiều Oanh, đại diện cho người bị hại có nộp Giấy nhận tiền của gia đình bị cáo bồi thường thêm cho bị hại 10.000.000đ. Xét thấy đây là tình tiết giảm nhẹ mới, do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của Kiểm sát viên, giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo L1.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đinh Khắc H, thấy rằng: Bị cáo H hưởng ứng cùng đồng phạm, tuy không mang theo hung khí, không giựt hung khí nhưng a dua theo và lấy xe của M chở V đi gây án. Tại phòng cấp cứu bị cáo đã ném xe lăn vào người anh T; xô xát với anh V. Với hành vi như trên, tòa án sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật hình sự (dùng hung khí) có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải xử phạt bị cáo 42 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có xuất trình tình tiết mới là bồi thường thêm cho người bị hại 5.000.000đ. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt; đây là lần đầu tiên phạm tội; tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; do vậy Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, giảm hình phạt đối với bị cáo H.

[6] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đinh Khắc H1, thấy rằng: Bị cáo H1 cũng hưởng ứng cùng đồng phạm, tuy không mang theo hung khí, không giựt hung khí, nhưng tại phòng cấp cứu bị cáo đã ôm anh V lại để cho đồng phạm xô xát và đánh, đá anh V nhiều cái. Với hành vi như trên, tòa án sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 BLHS (dùng hung khí) có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; một số tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng” là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo có xuất trình tình tiết mới là bồi thường thêm cho người bị hại 5.000.000đ; xét thấy: Bị cáo H1 chưa có tiền án tiền sự; đây là lần đầu vi phạm pháp luật đã thể hiện thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải; đã bồi thường thiệt hại và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; là em ruột của bị cáo H (đang bị phạt tù); do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của Kiểm sát viên cho bị cáo được hưởng án treo để có điều kiện chăm sóc gia đình.

[7] Về án phí: Kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Văn V không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; kháng cáo của các bị cáo Vũ Văn L, Nguyễn Phi L1, Đinh Khắc H và Đinh Khắc H1 được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

[8] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Vũ Văn V về việc xin giảm nhẹ hình phạt; giữ nguyên phần hình phạt đối với bị cáo V tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Căn cứ: Điểm d, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; điểm e khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn V phạm tội “Giết người”.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn V 16 (Mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/9/2019.

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2/ Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Vũ Văn L (Vũ Tùng L), Nguyễn Phi L1, Đinh Khắc H (Bom) và Đinh Khắc H1 về kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; sửa phần hình phạt đối với các bị cáo L, Ll, H, HI tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2021/HS-ST ngày 28/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Căn cứ: Điểm d, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 57; điểm e, h khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; khoản 5 Điều 65; Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn L phạm tội “Giết người”

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn L 11 (Mười một) năm tù.

Tổng hợp hình phạt của Bản án này với hình phạt 08 (Tám) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2018/HSST ngày 22/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

Buộc bị cáo Vũ Văn L phải chấp hành hình phạt chung của hai Bản án là 11 (Mười một) năm 08 (Tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/9/2019.

Căn cứ: khoản 1 Điều 330; điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phi L1 phạm tội “Chống người thi hành công vụ” và tội “Gây rối trật tự công cộng ”

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phi L1 02 (Hai) năm tù về tội “Chống người thi hành công vụ” 02 (Hai) năm tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Nguyễn Phi L1 phải chấp hành hình phạt chung cho cả 02 tội là: 04 (Bổn) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/9/2019.

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Khắc H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Khắc H 28 (Hai mươi tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/9/2019.

Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 318; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Khắc H1 phạm tội “Gây rối trật tự công cộng’’.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Khắc H1 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm;

Giao bị cáo Đinh Khắc H1 cho Ủy ban nhân dân thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

Trong thời gian thử thách người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3/ Các quyết định còn lại của bản án sơ thẩm xét xử không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4/ Án phí hình sự phúc thẩm: Các bị cáo Vũ Văn L (Vũ Tùng L), Nguyễn Phi L1, Đinh Khắc H (Bom) và Đinh Khắc H1 không phải nộp. Bị cáo Vũ Văn V phải nộp 200.000đ.

Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày tuyên án (23/4/2021) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 210/2021/HS-PT ngày 23/04/2021 về tội giết người, chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:210/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về