Bản án 210/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A - TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 210/2019/HNGĐ-ST NGÀY 29/05/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 29 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 49/2019/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 02 năm 2019 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2019/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phùng Thị Kiều T, sinh năm 1997; nơi cư trú: Ấp A, xã K, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Ông Tạ Chí L, sinh năm 1994; nơi cư trú: Ấp Q, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang.

(Bà T có mặt, ông L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm theo bà Phùng Thị Kiều T trình bày:

Hôn nhân giữa bà T và ông Tạ Chí L là do tự tìm hiểu yêu thương và đi đến hôn nhân, được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2016. Có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q ngày 28/02/2017. Sau khi kết hôn bà về nhà ông L làm dâu tại ấp Q, xã Q, huyện A. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau phát sinh nhiều mâu thuẫn do ông L có quan hệ với người phụ nữ khác ở bên ngoài không chăm lo cho cuộc sống gia đình, thường xuyên tranh cãi, có hành vi bạo lực đối với bà T. Bà và ông L ly thân từ tháng 11/2018 cho đến nay. Nhận thấy bà với ông L đã không còn tình cảm và không thể chung sống, vì vậy bà T yêu cầu xin ly hôn với ông L.

Về con chung: Có một con chung tên Tạ Chí H, sinh ngày 18/01/2017, hiện cháu H đang sống chung với bà. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Bà T xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho ông L theo quy định nhưng ông L vẫn không có mặt theo văn bản triệu tập của Tòa án, mặc dù trong quá trình tiến hành tố tụng Tòa án có phân công cán bộ đến tại nhà của ông L làm việc nhưng vẫn không gặp ông L để ghi lời khai. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của bà T và ông L để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được: Tại biên bản xác minh nơi cư trú của ông Tạ Chí L ngày 12/4/2019 được ông Bùi Văn P – Trưởng Công an xã Q, huyện A, tỉnh An Giang cho biết hiện nay ông L vẫn còn đăng ký hộ khẩu tại ấp Q, xã Q, huyện A, tỉnh An Giang.

Tại biên bản xác minh tình trạng hôn ngày 12/4/2019 được bà Phùng Thị Hà T – là chị ruột của bà T cho biết hôn nhân giữa bà T và ông L là do hai người tự tìm hiểu, yêu thương nhau được cha mẹ hai bên đồng ý, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, thời gian sau vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông L không quan tâm đến cuộc sống gia đình, có hành vi bạo lực với bà T nhiều lần, hơn nữa ông L còn có quan hệ với một người phụ nữ khác ở bên ngoài vì vậy bà T không thể chung sống được nữa nên về nhà cha mẹ ruột sống cùng với bà. Bà T cũng đã nhiều lần khuyên để hai vợ chồng hàn gắn lại với nhau nhưng không được, ông L cũng không quan tâm đến bà T, cả hai đã ly thân từ tháng 12/2018 (AL) cho đến nay. Về quan hệ con chung bà T và ông L có một con chung tên Tạ Chí H, sinh ngày 18/01/2017 hiện cháu H đang sống với bà T. Về tài sản chung, nợ chung thì bà không biết.

Tại phiên tòa, bà T bảo lưu ý kiến của mình. Riêng ông L đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt ông L theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng…là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng: Bà Phùng Thị Kiều T khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Tạ Chí L. Đồng thời, ông L cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Ông L được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông L theo khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà T, ông L do tự tìm hiểu, yêu thương nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q, vào ngày 28/02/2017 theo quy định nên được xem là hôn nhân hợp pháp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét yêu cầu của bà T xin ly hôn với ông L, Hội đồng xét xử xét thấy thời gian ly thân giữa bà T và ông L đã lâu nhưng cả hai không có giải pháp hàn gắn. Thời gian ly thân đã lâu phù hợp với lời trình bày của bà Phùng Thị Hà T (chị ruột của bà T). Xét thấy mâu thuẫn của bà T và ông L không thể hàn gắn nên Hội đồng xét xử chấp nhận ly hôn theo yêu cầu của bà T theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung: Trong quá trình chung sống bà T và ông L có một con chung tên Tạ Chí H, sinh ngày 18/01/2017; hiện cháu H đang sống với bà T. Khi ly hôn bà T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy, từ khi ly thân đến nay thì con chung đang sống với bà T bên cạnh đó cháu Tạ Chí H vẫn còn dưới 36 tháng tuổi theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, để đảm bảo điều kiện sống của con chung, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận để cho bà T tiếp tục nuôi dạy con chung là phù hợp.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho bà T biết: Bà T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Bà T tự thỏa thuận tài sản chung và xác định không có nợ chung. Do ông L vắng mặt nên Tòa án không giải quyết nếu sau này ông L có tranh chấp thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

Về án phí: Bà T là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Ông L không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ khoản 4 Điều 147, các Điều 227, 228, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phùng Thị Kiều T.

Về hôn nhân: Bà Phùng Thị Kiều T được ly hôn với ông Tạ Chí L.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 28 ngày 28/02/2017 của Ủy ban nhân dân xã Q, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

Về con chung: Bà Phùng Thị Kiều T được tiếp tục nuôi dạy con chung tên Tạ Chí H, sinh ngày 18/01/2017.

Bà T cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về án phí: Bà Phùng Thị Kiều T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0011096 ngày 19/02/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (bà T đã nộp đủ).

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 29/5/2019) Các đương sự được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng thời hạn kháng cáo của ông Tạ Chí L được tính kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 210/2019/HNGĐ-ST ngày 29/05/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:210/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về