Bản án 209/2021/HS-PT ngày 23/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 209/2021/HS-PT NGÀY 23/04/2021 VỀ TỘI LA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 23 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 233/2021/TLPT-HS ngày 03/3/2021 đối với bị cáo Lê Thị N, do có kháng cáo của bị hại bà Bùi Thị Cẩm T, bà Trần Thị H và ông Cao Văn D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

- Bị cáo bị kháng cáo : Lê Thị N, sinh ngày 02-02 -1987, tại Kon Tum.

Nơi cư trú: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: làm nông; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T và bà Đặng Thị L; có chồng là Lê Văn L (đã ly hôn) và có 03 con chung, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 07/10/2019 đến nay; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Tạ Văn N - Luật sư của Văn phòng luật sư Sài Gòn A, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Kon Tum. Địa chỉ: tỉnh Kon Tum.

- Bị hại có kháng cáo:

+ Ông Cao Văn D, sinh năm 1974; trú tại: Thôn 4, thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

+ Bà Bùi Thị Cẩm T, sinh năm 1979; trú tại: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

+ Bà Trần Thị H, sinh năm 1964. Trú tại: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

- Bị hại không có kháng cáo:

+ Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1959; trú tại: huyện N, tỉnh Kon Tum; vắng mặt.

+ Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1965; trú tại: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bị kháng cáo + Bà Lê Thị H1, sinh năm 1989; trú tại: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

+ Ông Lê Văn L, sinh năm 1984; địa chỉ: tỉnh Hải Dương; có mặt.

+ Bà Nguyễn Thị Tuyết N, sinh năm 1986; trú tại: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không bị kháng cáo + Ông Trần Mỹ D, sinh năm 1967; trú tại: thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum; có mặt.

+ Bà Vũ Thị Q, sinh năm 1989; trú tại: thành phố Đà Nẵng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

[1] Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ năm 2018 đến tháng 01/2019, Lê Thị N đã đưa ra các thông tin sai sự thật để vay, mượn tổng số tiền 4.570.000.000đ (Bốn tỷ, năm trăm bảy mươi triệu đồng) của các cá nhân trên địa bàn huyện N, tỉnh Kon Tum để tiêu xài cá nhân đến khi bị phát hiện N đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cụ thể:

Lần thứ nhất: Vào khoảng cuối tháng 12/2018,thông qua bà Trịnh Thị Loan, Lê Thị N đặt vấn đề vay tiền của ông Cao Văn D. Ông D đồng ý cho N vay tiền nhưng phải có tài sản thế chấp. Lúc này, vì đang cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân nên N đã nảy sinh ý định làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, rồi sử dụng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả này để thế chấp và vay tiền của ông D. Để thực hiện mục đích đó, vào khoảng đầu tháng 01/2019, N sử dụng mạng Internet vào tài khoản mạng xã hội ZALO mang tên “Lâm Chí K” để liên hệ làm giả Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất (Giấy CNQSDĐ). Lâm Chí K yêu cầu N cung cấp các thông tin cần làm giả. Cùng ngày, N đã chụp hình bản phô tô Giấy CNQSDĐ số CM 177873 mang tên Trần Mỹ D do UBND huyện N cấp ngày 16/7/2018 mà N có trước đó do vợ, chồng ông Trần Mỹ D và bà Bùi Thị Cẩm T đưa để nhờ N đi vay tiền ngân hàng rồi gửi cho tài khoản mang tên “Lâm Chí K” yêu cầu làm giả giấy CNQSDĐ như thông tin đã chuyển và thay đổi nội dung tại phần “Nội dung thay đổi và cơ sở pháp lý” thành “Chuyển nhượng cho Lê Thị N… theo hồ sơ số 0312.CN.003, ngày 25/12/2018”, chi phí làm giả giấy CNQSDĐ là 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng). Sau khi thỏa thuận xong, theo sự chỉ dẫn của K, N đã đến chi nhánh V huyện N chuyển số tiền 25.000.000đ vào tài khoản ngân hàng V số 0181003548918 mang tên Lâm Thanh T. Đến ngày 05/01/2019, N đến nhà xe Minh Quốc ở huyện N để nhận giấy CNQSDĐ giả do “Lâm Chí K” gửi đến. Ngày 07/01/2019, N mang giấy CNQSDĐ số CM 177873 mang tên Trần Mỹ D được làm giả đến nhà ông Cao Văn D để thế chấp vay của ông D số tiền 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng). Ngày 08/01/2019, N tiếp tục vay ông D số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Khi vay tiền, N và ông D có lập 02 giấy mượn tiền có chữ ký xác nhận của N và ông D. Ngày 15/01/2019, N tiếp tục đặt vấn đề vay của ông D số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng), ông D yêu cầu phải có chồng của N là Lê Văn L cùng ký xác nhận, do đó N đã yêu cầu L chở N đến nhà ông D để ký vào giấy vay tiền. Khi N và L đến nhà ông D, ông D yêu cầu L ký xác nhận vào Giấy nhận tiền với số tiền 100.000.000đ, đồng thời ký thêm vào 02 giấy mượn tiền 400.000.000 đồng và số tiền 200.000.000 đồng mà N đã ký và nhận tiền trước đó. Thấy N vay nhiều tiền, L đã hỏi vợ lý do vay thì được N nói vay hộ cho dì là Đặng Thị Rộng, L đồng ý và ký xác nhận. Tổng cộng, N vay của ông Cao Văn D 03 lần với số tiền 700.000.000 đồng (Bảy trăm triệu đồng). Sau khi có được tiền, Lê Thị N đã sử dụng vào mục đích trả nợ và tiêu xài cá nhân. Sau đó vài ngày ông D nghe thông tin Lê Thị N có hành vi dùng giấy CNQSDĐ giả lừa đảo nên ông D đi kiểm tra giấy CNQSDĐ mà N thế chấp cho mình thì phát hiện là giả, nên đã trình báo đến Cơ quan công an. Đến nay, Lê Thị N vẫn chưa trả lại số tiền trên cho ông Cao Văn D.

Lần thứ hai: Vào năm 2018, Lê Thị N đã nhiều lần vay mượn tiền của bà Nguyễn Thị B với lý do để đảo hạn ngân hàng. Sau đó, N trả tiền nợ đầy đủ cho bà B nên được bà B tin tưởng. Đến ngày 07/01/2019, N đến nhà bà B để thanh toán các khoản nợ tiền vay trước đó và N thống nhất với bà B còn nợ lại 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng), sau đó N viết cho bà B 01 giấy mượn tiền, hẹn 10 ngày sau sẽ hoàn trả đầy đủ số tiền nêu trên. Ngày 08/01/2019, N đến nhà bà B tiếp tục đặt vấn đề vay mượn tiền của bà B để đảo hạn ngân hàng nhưng bà B không có tiền cho vay. Cũng trong thời gian này, N liên hệ với bà Nguyễn Thị N1 (em gái bà B, trú tại TP. Đà Nẵng) để vay tiền nhưng chưa được. Do đó, N đưa ra thông tin gian dối với bà N1 là có Vũ Thị Q đang nợ N số tiền 900.000.000đ (Chín trăm triệu đồng), hiện Q đang muốn bán một lô đất ở tỉnh Quảng Nam để trả nợ cho N nhưng vì giá cao nên chưa bán được, nếu bà N1 đồng ý mua lô đất trên thì N sẽ là trung gian liên hệ với Q để thỏa thuận mua bán. Qua trao đổi với N, bà N1 đồng ý mua lô đất trên với giá 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng).Cùng ngày 08/01/2019, N liên hệ với tài khoản ZALO “Lâm Chí K” để yêu cầu làm giả 02 giấy CNQSDĐ số BQ 413799 mang tên Vũ Thị Q, vị trí tại thửa đất số C5- 05 tờ bản đồ số 00 địa chỉ khu đô thị số 3, xã Điện N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam. N yêu cầu làm giả theo thông tin giấy CNQSDĐ thật mang tên Vũ Thị Q (N đã chụp ảnh bản pho toGCNQSDĐ mà N có do Q cung cấp trước đó để nhờ đi bán) rồi gửi qua ZALO cho K, đồng thời thay đổi trên 02 Giấy CNQSDĐ ở phần “Nội dung thay đổi và cơ sở pháp lý” thành “Chuyển nhượng cho Lê Thị N … theo hồ sơ số 0001.CN.0907, ngày 25/12/2018” “Chuyển nhượng cho Lê Thị N … theo hồ sơ số 001.CN.2307, ngày 08/01/2019”, N và K thống nhất chi phí làm giả 02 giấy CNQSDĐ trên là 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng). Cùng ngày, N đến trụ sở V chi nhánh N để chuyển số tiền 30.000.000đ vào tài khoản ngân hàng V số 0181003548918 mang tên Lâm Thanh T. Khoảng hai ngày sau, N đến bến xe Minh Quốc để nhận 02 Giấy CNQSDĐ do N đặt làm giả trên. Ngày 11/01/2019, Lê Thị N lợi dụng việc đã thỏa thuận với bà N1(em gái bà B) về việc mua bán đất để liên hệ vay thêm của bà B số tiền 160.000.000đ (Một trăm sáu mươi triệu đồng) và N đã thế chấp lại 01 Giấy CNQSDĐ số BQ 413799 mang tên Vũ Thị Q đã chuyển nhượng cho Lê Thị N (Giấy CNQSDĐ do N đặt làm giả để bán cho bà N1) cho bà B giữ. N hứa hẹn sau khi mua bán đất với bà N1 xong sẽ hoàn trả đầy đủ nợ cho bà B. Vì tin tưởng thông tin thỏa thuận mua bán đất giữa N và bà N1 nên bà B đồng ý cho N vay số tiền trên. Ngày 18/01/2019, N mượn thêm bà B số tiền 80.000.000đ (Tám mươi triệu đồng), trong đó 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng) N nói mượn dùm cho em gái là H1; 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng) mượn để làm thủ tục sang nhượng Giấy CNQSDĐ cho bà N1. Chiều tối cùng ngày, N cùng bà Nguyễn Thị B ra Đà Nẵng để gặp bà N1. Tại nhà bà N1, bà B đưa lại Giấy CNQSDĐ do N thế chấp trước đó cho bà N1 để N sang tên cho bà N1 thì mới đồng ý cho vay tiền, còn số tiền N nợ bà B sẽ được cấn trừ vào việc sang nhượng trên. Khi N cùng vợ chồng bà N1 và Lê Thị Bích B (bạn của N) đến Văn phòng công chứng tại thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam làm thủ tục sang nhượng đất đai từ Giấy CNQSDĐ giả mang tên Vũ Thị Q thì bị nhân viên tại đây phát hiện Giấy CNQSDĐ trên là giả. Sau đó Cơ quan CSĐT - Công an thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam mời các bên liên quan về trụ sở để làm việc, rồi chuyển toàn bộ hồ sơ cho Cơ quan điều tra Công an tỉnh Kon Tum. Đến thời điểm hiện tại, Lê Thị N còn nợ bà Nguyễn Thị B tổng số tiền 440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng).

Lần thứ ba: Từ tháng 01/2018 đến tháng 12/2018, Lê Thị N và Bùi Thị Cẩm T,trú tại tổ 7, thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum là bạn bè và thường xuyên có mối quan hệ vay mượn tiền. Khoảng tháng 1/2019, bà T thường xuyên liên lạc để đòi nợ N các khoản vay mà N đã vay của bà T trước đó. Vì không có tiền trả nợ nên N xin khất nợ, tuy nhiên bà T không đồng ý, đồng thời yêu cầu N muốn khất nợ phải có tài sản thế chấp (trước đó N vay mượn tiền bà T không thế chấp bằng tài sản). Ngày 15/01/2019, N đến nhà bà T thế chấp tài sản là 01 Giấy CNQSDĐ mang tên Vũ Thị Q số BQ 413799, vị trí thửa đất C5- 05, tờ bản đồ số 00, địa chỉ: khu đô thị số 3, xã Điện N, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam (Giấy CNQSDĐ do N đặt làm giả trước đó) để khất nợ với bà T và vay thêm số tiền 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng). Lúc này, N và bà T đã thống nhất chốt nợ đối với các khoản vay trước đó với bà T và N còn nợ lại bà T là 270.000.000 đồng. Vì không biết Giấy CNQSDĐ do N đưa là giả nên bà T đồng ý cho N vay. Và cùng ngày 15/01/2019 N và bà T thống nhất viết thành hai Giấy mượn tiền, một Giấy mượn tiền với nội dung N mượn bà T số tiền 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng) có thế chấp 01 Giấy CNQSDĐ và 01 Giấy mượn tiền với nội dung N mượn bà T số tiền 270.000.000đ (Hai trăm bảy mươi triệu đồng). Tổng số tiền N vay, mượn của bà T(thế chấp 01 Giấy CNQSDĐ giả) là: 670.000.000 đồng (Sáu trăm bảy mươi ngàn đồng). Ngoài các khoản vay đứng tên Lê Thị N tại các Giấy mượn tiền đối với bà Bùi Thị Cẩm T, từ tháng 08/2018 đến tháng 01/2019, vì cần tiền để trả nợ và tiêu xài cá nhân, Lê Thị N đã đưa ra thông tin em gái của N là Lê Thị H1 (là cán bộ ngân hàng V chi nhánh huyện N) đang cần tiền để huy động vốn và làm đảo hạn ngân hàng để vay tiền bà T nhiều lần. Tại các lần vay tiền đó, bà T đều yêu cầu N là Lê Thị H1 phải trực tiếp liên lạc cho bà T và đến ký xác nhận vào các Giấy mượn tiền. Lúc này, N biết giữa bà T và H1 không quen biết nhau nên Lê Thị N đã mua 01 sim điện thoại có số 0836155456, sau đó N đã gọi vào số điện thoại của bà T và tự nhận mình là Lê Thị H1. Quá trình gọi điện, N xác nhận các khoản vay của H1 đối với bà T. Tại một số lần giao tiền, bà T yêu cầu Lê Thị H1 đến nhà bà T để ký xác nhận, tuy nhiên N đưa ra thông tin với bà T là Lê Thị H1 đang làm việc trên ngân hàng hoặc là H1 đang làm việc ở cửa khẩu Bờ Y nên không đến được, để N mang các Giấy mượn tiền đến ngân hàng cho H1 ký thì bà T đồng ý. Tuy nhiên sau đó N tự mình viết vào nội dung các Giấy mượn tiền rồi mang Giấy mượn tiền này đến gặp Nguyễn Thị Tuyết N (bạn thân của N) nhờ N ký giả chữ ký của Lê Thị H1. Khi đến gặp N, thì N cố ý gấp Giấy mượn tiền thành ba phần theo chiều dọc để tránh N nhìn thấy số tiền N vay, đồng thời nói N ký giả chữ ký của Lê Thị H1 là em gái N, để N đi vay tiền. N đã ký cho N 02 lần vào 02 giấy mượn tiền (tại các thời điểm khác nhau từ tháng 08/2018 đến tháng 01/2019). Sau khi đưa N ký giả chữ ký của Lê Thị H1, N mang Giấy mượn tiền đến nhà bà T để nhận tiền. Quá trình vay mượn giữa bà Bùi Thị Cẩm T và Lê Thị H1 (trên thực tế là Lê Thị N) diễn ra nhiều lần với các số tiền khác nhau. Sau các lần vay mượn tiền và chốt nợ, giữa N và bà T có viết nhiều giấy vay mượn tiền, tuy nhiên sau khi viết giấy vay mượn tiền mới, N và bà T đã hủy các giấy vay mượn tiền cũ. Vào ngày 15/01/2019, bà T và N chốt nợ thành 01 (Một) Giấy mượn tiền với nội dung Phạm Hoàng V - Lê Thị H1 vay của bà T số tiền 2.000.000.000đ (Hai tỷ đồng)có ký tên Lê Thị H1 bên người vay mượn tiền(do Nguyễn Thị Tuyết N) ký giả. Toàn bộ số tiền vay mượn được từ bà T, Lê Thị N đã chiếm đoạt, sử dụng vào mục đích trả nợ và tiêu xài cá nhân.

Lần thứ tư: Vào ngày 28/12/2018 (ngày 22/11/2018 âm lịch), vì cần tiền để trả nợ nên Lê Thị N đã liên hệ với bà Trần Thị H để vay số tiền 250.000.000đ (Hai trăm năm mươi triệu đồng) với lý do để đảo hạn ngân hàng và hứa hẹn sẽ trả trong vòng 1 tháng. Bà H đồng ý, sau khi giao tiền giữa bà H và N có viết một Giấy mượn tiền với nội dung N mượn bà H số tiền 250.000.000 đồng.Đếnngày02/01/2019(ngày 27/11/2018 âm lịch), vì cần tiền để trả nợ nên N tiếp tục hỏi vay bà H số tiền 140.000.000đ (Một trăm bốn mươi triệu đồng) để đảo hạn ngân hàng, hẹn trong 3 ngày N sẽ trả lại đồng thời N đưa cho bà H một Giấy xác nhận nợ của ngân hàng đến hạn đảo nợ ngân hàng(Giấy này do N mượn của người khác) để bà H tin tưởng. Vì tin tưởng nên bà H đồng ý và tiếp tục cho N vay số tiền 140.000.000 đồng. Đến ngày 09/01/2019 (ngày 04/12/2018 âm lịch), vì bị các chủ nợ đòi nợ nên N tiếp tục gọi điện hỏi vay bà H số tiền 50.000.000đ để đảo hạn ngân hàng cho người khác và hứa hẹn sau khi N đi Đà Nẵng xem đất về sẽ hoàn trả tất cả các khoản nợ cho bà H. Vì tin tưởng thông tin do N đưa ra nên bà H đồng ý cho N vay. Đến khoảng giữa tháng 01/2019, bà H liên tục đòi nợ N. Để trốn tránh việc trả nợ, N đã đưa cho bà H xem 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (giả) và nói sẽ bán thửa đất này cho bà Nguyễn Thị N1, sau khi bán được đất sẽ hoàn trả đầy đủ tiền cho bà H. Trong thời gian này, N tiếp tục liên hệ với đối tượng “Lâm Chí K” để đặt làm giả 01 GCNQSDĐ theo thông tin thửa đất của ông Vũ Duy T (hàng xóm của N), vị trí tại thửa đất số 29, tờ bản đồ số 50, địa chỉ TDP 6, thị trấn P, huyện N, tỉnh Kon Tum và đổi tên chủ sở hữu thành Lê Thị N, với giá là 5.000.000đ (Năm triệu đồng). N đã chuyển khoản đến tài khoản ngân hàng V số 0181003548918 mang tên Lâm Thanh T số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng). Sau đó, N ra nhà xe Minh Quốc tại N để nhận GCNQSDĐ giả nêu trên. Đối với GCNQSDĐ này, N có ý định nếu không lấy được tiền từ việc mua bán đất với bà N1 sẽ đem thế chấp cho bà H để kéo dài thời gian trả nợ nên chưa mang đi sử dụng mà đem cất giấu tại phía sau máy in trong nhà N. Hiện nay, Lê Thị N còn nợ của bà Trần Thị H tổng số tiền 440.000.000 đồng (Bốn trăm bốn mươi triệu đồng).

Lần thứ năm: Khoảng đầu tháng 12/2018, vì cần tiền để trả nợ nên Lê Thị N đã liên hệ với bà Nguyễn Thị T để đặt vấn đề vay tiền với lý do để N đảo hạn ngân hàng cho người khác. Vì tin tưởng nên bà T đồng ý và cho N vay 02 lần với tổng số tiền là 900.000.000 đồng (Chín trăm triệu đồng). Đến ngày 10/12/2018, Lê Thị N vay được số tiền 700.000.000 đồng (N không nhớ rõ là vay của ai) và trả cho bà T, do đó bà T và N đã thống nhất viết một Giấy nhận nợ với nội dung N còn nợ bà T số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng), hẹn đến ngày 10/01/2019 N sẽ hoàn trả đầy đủ số tiền. Đến ngày 12/12/2018, vì cần tiền để trả nợ nên N tiếp tục hỏi mượn bà T số tiền 300.000.000đ (Ba trăm triệu đồng) với lý do đưa tiền cho Lê Thị H1 (em gái N) huy động vốn để đạt doanh thu và N hứa hẹn sau 5 ngày sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền 500.000.000 đồng đã vay của bà T. Vì tin tưởng N nên bà T đồng ý giao tiền, giữa N và bà T có viết Giấy nhận nợ và có ký xác nhận giữa hai bên. Đến thời hạn trả nợ, bà T liên tục gọi điện đòi nợ nên N đã đi vay tiền của người khác(N không nhớ rõ người cho vay) và trả cho bà T số tiền 180.000.000 đồng vào ngày 11/01/2019, đồng thời hứa hẹn một ngày sau sẽ hoàn trả đầy đủ số tiền còn lại. Tuy nhiên, từ ngày 12/01/2019 đến nay, N không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ. Hiện tại, N còn nợ bà Nguyễn Thị T số tiền 320.000.000 đồng (Ba trăm hai mươi triệu đồng).

Ngày18/01/2019, sau khi N và bà N1 đi công chứng Hợp đồng chuyển nhượng đất tại Văn phòng công chứng thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam và bị nhân viên tại đây phát hiện Giấy CNQSDĐ trên là giả, N đã bị Cơ quan CSĐT - Công an thị xã Đ, tỉnh Quảng Nam mời về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan công an, N không thừa nhận hành vi sử dụng giấy CNQSDĐ giả của mình mà cho rằng Vũ Thị Q đã bán đất cho mình và đưa Giấy CNQSDĐ giả nêu trên. Đến ngày 19/01/2019, sau khi làm việc với Cơ quan CSĐT- Công an thị xã Đ, N biết hành vi sử dụng Giấy CNQSDĐ giả của mình đã bị các chủ nợ ở huyện N, tỉnh Kon Tum phát hiện nên N đã bỏ trốn. Sau khi biết N bỏ trốn, ông Cao Văn D, bà Bùi Thị Cẩm T, bà Nguyễn Thị B, bà Trần Thị H, bà Nguyễn Thị T đã làm đơn tố giác về hành vi phạm tội của Lê Thị N.

Ngày 30/01/2019 Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện N, tỉnh Kon Tum được biết: Tính đến thời điểm hiện nay, Vợ chồng ông Lê Văn L và bà Lê Thị N, không có tài sản Quyền sử dụng đất nào trên địa bàn huyện N.

- Bản kết luận giám định số 22/GĐTP-2019 ngày 23/03/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon Tum kết luận:

+ Chữ ký, chữ viết “Lê Văn L” trên các tài liệu cần giám định (ký hiệu A3, A4, A5) với chữ ký, chữ viết của Lê Văn L trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M4) là do cùng một người ký, viết ra.

+ Chữ viết phần nội dung, chữ ký đứng tên Lê Thị N trên các tài liệu cần giám định (A3;A4;A5;A6;A7;A8;A9;A10-1;A10-2;A11;A12;A14) với chữ viết, chữ ký của Lê Thị N trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M5) là do cùng một người ký, viết ra.

+ Chữ viết, chữ ký họ tên “Lê Thị N” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A13) với chữ viết, chữ ký của Lê Thị N trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M5) là do cùng một người viết ra.

+ Chữ viết phần nội dung trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A13) với chữ viết của Lê Thị H1 trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M5) không phải do cùng một người viết ra.

+ Chữ viết phần nội dung trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A15; A16) với chữ viết của Lê Thị N trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M6) không phảido cùng một người viết ra.

+ Chữ viết phần nội dung trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A15) với chữ viết của Lê Thị N trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M5) là do cùng một người viết ra.

+ Chữ viết phần nội dung trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A16) với chữ viết của Lê Thị N trên tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M5) không phải do cùng một người viết ra.

- Bản kết luận giám định số 54/GĐTP-2019 ngày 31/05/2019 của phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon Tum kết luận:

- Bản kết luận giám định số 62/KLGĐ-PC09 ngày 27/03/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Kon Tum kết luận: Chữ viết “Lê Thị H1” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A1) với chữ viết của Nguyễn Thị Tuyết N trên các tài liệu mẫu so sánh (ký hiệu M1; M2; M3) là do cùng một người viết ra.

- Tại bản kết luận giám định số 192/KLGĐ-PC09 ngày 20/9/2020 của phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Kon Tum kết luận: Đĩa CD nhãn hiệu CD-R80MQ màu vàng có chứa tập tin video có tên “1947856258760237886.mp4”, dung lượng 19MB, thời gian 06 phút 49 giây. Đoạn clip không bị cắt gép, chỉnh sửa và không có âm thanh.

[2] Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 22/01/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum đã quyết định:

Áp dụng: Điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015;

Tuyên bố bị cáo Lê Thị N phạm tội:“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Xử phạt: Bị cáo Lê Thị N 20 (Hai mươi) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 04 (Bốn) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo Lê Thị N phải chịu hình phạt chung là 24 (Hai bốn) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 07/10/2019).

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

[3] Kháng cáo:

Ngày 03-02-2021 bị hại Trần Thị H kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại với lý do chưa xác định số tiền 3.800.000.000 đồng bị cáo N chiếm đoạt giờ đang ở đâu và không Kê biên tài sản là ngôi nhà của vợ chồng bị cáo N để bảo đảm thi hành án.

Ngày 03-02-2021 bà Bùi Thị Cẩm T kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại với lý do chưa xác định số tiền 3.800.000.000 đồng bị cáo N chiếm đoạt giờ đang ở đâu và không Kê biên tài sản là ngôi nhà của vợ chồng bị cáo N để bảo đảm thi hành án. Chưa thực hiện đầy đủ các hoạt động điều tra để làm sáng tỏ vụ án và có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm đối với Lê Thị H1, Nguyễn Thị Tuyết N.

Ngày 03-02-2021 bị hại Cao Văn D kháng cáo đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại với lý do chưa xác định số tiền 3.800.000.000 đồng bị cáo N chiếm đoạt giờ đang ở đâu và không Kê biên tài sản là ngôi nhà của vợ chồng bị cáo N để bảo đảm thi hành án; bỏ lọt tội phạm đối với trường hợp của ông Lê Văn L về việc L giúp sức chiếm đoạt số tiền 675.000.000 đồng tại các Giấy vay tiền của ông.

[4] Tại phiên tòa phúc thẩm:

Những người kháng cáo vẫn giữ nguyên các yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tham gia phiên tòa có ý kiến: Thẩm phán, Thư ký Tòa án và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Về nội dung đề nghị không chấp nhận các kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về tội danh:

Từ năm 2018 đến tháng 01-2019 bị cáo Lê Thị N đã lên mạng internet tìm hiểu và liên hệ với một người tên Lâm Chí K (không rõ nhân thân lai lịch) ở thành phố Hồ Chí Minh để yêu cầu Lâm Chí K làm giả 04 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, với chi phí là 60.000.000 đồng. Sau khi có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả theo đúng yêu cầu, N đã sử dụng đem thế chấp, đưa ra những thông tin gian dối như cần tiền đáo hạn ngân hàng, cần tiền để đưa cho em gái của N là Lê Thị H1 là cán bộ Ngân hàng V, để huy động vốn, cần tiền trả tiền hàng hóa bên Lào, cần tiền để làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, từ đó vay mượn tiền của một số người dân với mục đích chiếm đoạt tài sản của họ để chi tiêu cá nhân. Cụ thể chiếm đoạt của ông Cao Văn D ba lần với số tiền 700.000.000 đồng, chiếm đoạt của bà Bùi Thị Cẩm T số tiền là 2.670.000.000 đồng, chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị B số tiền 440.000.000 đồng, chiếm đoạt của bà Trần Thị H số tiền 440.000.000 đồng, chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị T số tiền 320.000.000 đồng. Tổng số tiền chiếm đoạt là 4.570.000.000 đồng. Sau khi bị phát hiện các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giả thì Lê Thị N đã bỏ trốn.

Bản án hình sự sơ thẩm đã quyết định bị cáo Lê Thị N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét các nội dung, yêu cầu kháng cáo của các bị hại:

[3.1] Đối với nội dung kháng cáo về việc chưa làm rõ số tiền 3.800.000.000 đồng mà bị cáo N chiếm đoạt hiện nay ở đâu. Cơ quan điều tra đã xác định N chiếm đoạt toàn bộ số tiền và chịu trách nhiệm hình sự với số tiền đã chiếm đoạt là 4.570.000.000 đồng; không có cơ sở xác định số tiền này đã chuyển cho ai. Như vậy xác định bị cáo N chịu trách nhiệm là đúng. Bị cáo N sử dụng số tiền này cho việc trả nợ trước đây và tiêu xài cá nhân. Như vậy kháng cáo cho rằng chưa làm rõ số tiền này là không có cơ sở.

[3.2] Đối với kháng cáo về việc kê biên tài sản là ngôi nhà trên đất của bố mẹ vợ của N và L, xét thấy ngôi nhà này không phải hình thành từ nguồn tiền mà bị cáo chiếm đoạt, mà đã hình thành từ trước đó, lại nằm trên đất của bố mẹ bị cáo cho; qua xác minh thì vợ chồng N - L không có quyền sử dụng đất nào trên địa bàn huyện N, nên các Cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm không Kê biên là có cơ sở. Việc xử lý khối tài sản này để trả nợ như thế nào, thuộc thẩm quyền xem xét của Cơ quan Thi hành án dân sự.

[3.3] Xét kháng cáo về nội dung xem xét trách nhiệm hình sự đối với Lê Thị H1, Nguyễn Thị Tuyết N, Lê Văn L:

Đối với chị Nguyễn Thị Tuyết N (là bạn bè thân thiết của Lê Thị N): Từ thời điểm tháng 08/2018 đến tháng 01/2019, N khai đã một đến hai lần giả chữ ký của Lê Thị H1 vào giấy mượn tiền do Lê Thị N cầm đến, với mục đích là để N vay tiền của bà Bùi Thị Cẩm T. Hành vi giả chữ ký của Nguyễn Thị Tuyết N xuất phát từ sự tin tưởng là bạn thân cùng làm ăn, buôn bán và khả năng trả nợ của Lê Thị N, hành vi này không mang tính chất vụ lợi và không biết có mục đích chiếm đoạt. Số tiền N lấy của bà T bao nhiên và làm gì N không biết. N và bà T cho vay mượn và chốt nợ vào ngày 15/1/2019 với số tiền 2.000.000.000đ. Sau đó N mới đem giấy đến nhờ N ký giả người mượn là Lê Thị H1 (em gái N) để chốt nợ. Ý thức chiếm đoạt đã được thực hiện thành công trước khi N ký giấy cho N khoản tiền 2.000.000.000 đồng, (N và bà T đã cho vay mượn xong trước khi ký giấy chốt nợ), đây cũng là hành vi giúp sức nhưng vì N không biết là bị cáo N dùng giấy để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bản án sơ thẩm cho rằng chưa có cơ sở để khẳng định N có biết bị cáo N dùng để chiếm đoạt hay chỉ là dùng để vay mượn bình thường là có cơ sở; bởi Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ điều tra bổ sung nhưng không chứng minh được, theo các tin nhắn giữa bị cáo với N trong thời gian bị cáo N trốn tránh thể hiện N không cấu kết với bị cáo để chiếm đoạt tài sản; vì vậy Bản án phúc thẩm cần tiếp tục kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với anh Lê Văn L (là chồng của Lê Thị N): Do tin tưởng thông tin của N đưa ra là đi vay tiền cho dì của N là bà Đặng Thị Rộng nên L đã đến nhà ông Cao Văn D ký vào giấy mượn tiền vay 100.000.000 đồng. Sau khi ký xong thì ông D lấy tiếp hai Giấy mượn tiền mà N đã vay trước đó nói L ký vào. Bản thân L không biết việc trước đó N đã thế chấp Giấy chứng nhận QSD đất giả để vay tiền của ông D, chính L cũng bị N lừa dối. Sau khi nhận số tiền vay, N đã cầm tiền và đi đâu L không rõ và không biết; giữa N và L nay cũng đã ly hôn. Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ để điều tra làm rõ hành vi của L, theo như nội dung trong đĩa CD do ông D cung cấp, tuy nhiên, vẫn chưa đủ cơ sở xử lý. Bản án phúc thẩm cần kiến nghị Cơ quan điều tra xem xét xử lý theo quy định pháp luật.

Đối với Lê Thị H1 thì xác định H1 không tham gia vào các hành vi lừa đảo. Không có căn cứ xác định N và H1 cùng liên quan nhau trong việc vay mượn để chiếm đoạt; N chỉ mượn danh của H1 và hoạt động đảo hạn Ngân hàng có lời để cho các bị hại tin tưởng mà giao tiền; khi bị hại yêu cầu H1 ký giấy mượn thì N lại nhờ N ký giả tên H1.

Bản án sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết, thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng và đánh giá rõ các nội dung của vụ án; quyết định mức hình phạt phù hợp đối với bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm không có tài liệu chứng cứ mới làm thay đổi các tình tiết của vụ án nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận các kháng cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm, chỉ điều chỉnh bổ sung các Kiến nghị tiếp tục xem xét để xử lý hành vi của Nguyễn Thị Tuyết N, Lê Văn L theo quy định của pháp luật.

[4] Về án phí phúc thẩm: các kháng cáo của bị hại không được chấp nhận, nhưng các kháng cáo này không phải là các kháng cáo về phần quyết định dân sự vì các bị hại đều thống nhất mức thiệt hại và mức buộc bị cáo đã chiếm đoạt phải hoàn trả; đây là kháng cáo về phần thủ tục tố tụng hình sự cụ thể để làm sáng tỏ thêm hành vi chiếm đoạt của tội phạm, thủ tục nhằm bảo đảm trách nhiệm bồi thường; do đó người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bà Trần Thị H, bà Bùi Thị Cẩm T, ông Cao Văn D; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2021/HS-ST ngày 22-01- 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum.

2. Kiến nghị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Kon Tum xem xét hành vi giúp sức của Nguyễn Thị Tuyết N, Lê Văn L trong vụ án để xử lý theo quy định của pháp luật.

3. Những người kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 23-4-2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

386
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 209/2021/HS-PT ngày 23/04/2021 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:209/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về