TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 209/2020/HS-ST NGÀY 06/11/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 215/2020/TLST-HS ngày 16 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 210 /2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo: Châu Minh D, sinh năm 1994 tại tỉnh Cà Mau; địa chỉ thường trú: Ấp Ô, xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở hiện tại: Khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã B, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ học vấn: 12/12; con ông Châu Văn B, sinh năm 1973 và bà Phạm Thị Đ, sinh năm 1974; Bị cáo có 02 em, lớn sinh năm 1996, nhỏ sinh năm 2003; Bị cáo có vợ tên Trương Thị Như Ý, sinh năm 1995; Bị cáo có 01 con sinh, năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 20/6/2020 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lúc 10 giờ 45 phút, ngày 20/6/2020, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – kinh tế Công an thị xã Bến Cát phối hợp với Công an phường T, thị xã Btuần tra trên đường NL3, thuộc khu phố 3B, phường T, thị xã B , tỉnh Bình Dương, khi đến trước dãy nhà trọ không tên trên đường NL3 thì phát hiện Châu Minh D có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu kiểm tra, qua kiểm tra phát hiện trong túi quần phía trước bên phải D đang mặc có 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng, qua làm việc D khai nhận là ma túy đá. Lực lượng Công an tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Dư, thu giữ tang vật là 01 gói nylon hàn kín chứa tinh thể màu trắng.
Tại Cơ quan điều tra, Châu Minh D khai nhận: Dương là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy từ đầu tháng 08/2019 cho đến ngày bị bắt. Nguồn ma túy mà D có để sử dụng là mua nhiều lần của đối tượng tên H (không rõ lai lịch) ở phường T, thị xã B, Bình Dương, mỗi lần mua là từ 300.000 đồng đến 500.000 đồng.
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 20/6/2020, D mượn điện thoại của người bạn (chưa rõ tên, nhân thân, lai lịch), sau đó gọi điện thoại bằng ứng dụng Zalo cho H hỏi mua 300.000 đồng ma túy đá thì H đồng ý và hẹn sẽ gọi lại sau. Đến 10 giờ 00 phút cùng ngày, Hận điện thoại qua ứng dụng Zalo kêu D đi đến đường NL13 thuộc Khu phố 3B, phường T, thị xã Bđể giao dịch mua, bán ma túy. D thuê xe ôm đi đến điểm hẹn, tìm, gặp H và mua được 01 gói nylon hàn kín chứa ma túy đá với giá 300.000 đồng. D cất giấu gói ma túy vừa mua vào trong túi quần phía trước bên phải D đang mặc và ngồi xuống lề đường tại khu vực phía trước nhà trọ không tên, trên đường NL3, Khu phố 3B, phường T, thị xã Bđể chơi game trên điện thoại. Đến 10 giờ 45 phút cùng ngày, thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang D đang tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tại bản Kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 26/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong gói nylon hàn kín là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,4666 gam. Methamphetamine là chất ma túy được quy định tại Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ quy định các danh Mục chất ma túy và tiền chất. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng: 0,4335 gam.
Đối với đối tượng tên H là người đã bán ma túy cho D để sử dụng do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên không đề cập xem xét, xử lý, khi nào xác định được Cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra làm rõ, xử lý sau.
Tại bản Cáo trạng số 217/CT-VKSBC ngày 12/10/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Châu Minh D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương tham gia phiên toà phát biểu ý kiến: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Châu Minh D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Châu Minh D từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 09 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 375/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,4335 gam Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 26/6/2020).
Bị cáo Châu Minh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Trong quá điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến về quyết định truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và nội dung bản Cáo trạng số 2217/QĐ-KSĐT ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát. Bị cáo không có ý kiến khiếu nại gì đối với Kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 26/6/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương.
Tại phiên tòa, bị cáo không đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận gì để đối đáp với Kiểm sát viên về nội dung luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên và bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thị xã B, tỉnh Bình Dương, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Châu Minh D đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ thu giữ trong vụ án, biên bản thu giữ vật chứng. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận:
Lúc 10 giờ 45 phút ngày 20/6/2020, tại khu vực đường NL3, Khu phố 3B, phường T, thị xã B, Bình Dương, Châu Minh D đã có hành vi tàng trữ 0,4666 gam ma túy, loại Methamphetamine trong túi quần phía trước bên phải D đang mặc nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an bắt giữ.
Căn cứ Kết luận giám định số 375/MT-PC09 ngày 26/6/2020 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định: mẫu tinh thể gửi giám định là ma túy, có trọng lượng 0,4666 gam loại Methamphetamine. Mẫu vật sau giám định được niêm phong, khối lượng 0,4335gam. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi mà bị cáo Châu Minh D đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Hội đồng xét xử nhận định tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy. Về nhận thức, bị cáo nhận thức hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo biết rõ ma tuý làm huỷ hoại sức khoẻ, làm mất khả năng lao động, học tập, làm cho thần kinh người nghiện bị tổn hại. Bị cáo muốn đạt ảo giác nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Xét về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, bị cáo không có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối chiếu với những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian không chỉ nhằm trừng trị bị cáo mà còn giáo dục bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; đồng thời có tác dụng giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Do đó, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều khoản, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt và các vấn đề khác đối với bị cáo là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) Bì thư dán kín số 375/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,4335 gam Methamphetamine là vật chứng của vụ án cần phải tịch thu, tiêu hủy.
[4] Đối với đối tượng tên H là người đã bán ma túy cho bị cáo D để sử dụng do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên xác định được Cơ quan điều tra sẽ tiến hành điều tra làm rõ, xử lý sau.
[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Căn cứ vào Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Châu Minh D phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Châu Minh D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 20/6/2020.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) Bì thư dán kín số 375/PC09 được niêm phong có hình dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, bên trong có chứa 0,4335 gam Methamphetamine.
(Vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Bến Cát giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục Thi hành án dân thị xã Bến Cát) Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Châu Minh D phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.
Bản án 209/2020/HS-ST ngày 06/11/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 209/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/11/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về