Bản án 209/2020/HS-PT ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 209/2020/HS-PT NGÀY 05/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 05 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 45/2020/TLPT- HS, ngày 08/01/2020 đối với bị cáo Bùi Kim N do có kháng cáo của bị cáo Bùi Kim N đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2019/HSST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Kim N (Tên gọi khác: không); giới tính: nữ; sinh năm: 1976, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: 76/16/9 đường XD, Phường Q, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: 340C/22 đường HVT, Phường Q, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Bán cơm; Con ông Bùi Văn T - sinh năm: 1946 và bà Nguyễn Thị Kim T (đã chết); Bị cáo đã ly hôn với chồng là Nguyễn Hoàng Tr - sinh năm: 1977 và có 02 con (lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2013); Tiền án: không; tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04/8/2019, đến ngày 09/8/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị cáo tại ngoại. (Có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 11/2018, Bùi Kim N đến quán Bar 212 NT, Quận X chơi thì được 01 người bạn tên Bé Ti (không rõ lai lịch) cho 01 viên ma túy tổng hợp, N lấy cất vào túi xách để dành sử dụng sau. Đến khoảng 01 giờ 15 phút ngày 04/8/2019, N đến quán Bar 36 Club, số 26 (tầng 14) đường BT, phường Bth, Quận X để dự sinh nhật 01 người bạn thì bị tổ kiểm tra Công an Quận X gồm các anh Nguyễn Minh L và Lê Đức D kiểm tra hành chính quán Bar 36 Club thì phát hiện Bùi Kim N và 13 người gồm Nguyễn Thanh T, Phạm Chí N, Vũ Thành K, Trần Bảo T, Lê Thị Thu Tr, Trần Thị Mỹ P, Nguyễn Thị Mỹ D, Vũ Thị Tuyết T, Vũ Thị Thu T, Nguyễn Công N T, Đỗ Toàn Th, Phan Văn U, Trần Thùy D đang ngồi tại bàn Vip 5 và Vip 6. Qua kiểm tra có sự chứng kiến của chị Nguyễn Thị Thanh Th (nhân viên phục vụ), tổ kiểm tra phát hiện trên bàn Vip 6 có 01 hộp kim loại bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu, 01 gói nylon chứa 01 viên nén màu xanh và 01 mảnh vụn màu xanh. Tổ kiểm tra tiếp tục kiểm tra thì phát hiện và thu giữ trong túi xách màu đen của Bùi Kim N đang cầm trên tay trái có 01 viên nén màu xanh. Tổ kiểm tra liền thu giữ vật chứng và đưa cả nhóm về Công an phường Bth, Quận X lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Sau đó, chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X xử lý theo thẩm quyền.

Theo kết luận giám định số 1558/KLGĐ-H ngày 14/8/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM kết luận:

- Gói 1: 01 viên nén màu xanh được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Bùi Kim N và hình dấu của Công an phường Bth, Quận X là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3915g, loại MDMA.

- Gói 2: được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thị Thanh Thảo (người chứng kiến) và hình dấu công an phường Bth, Quận X bên trong có 01 viên nén màu xanh và 01 mảnh vụn màu xanh trong 01 gói nylon là ma túy ở thế rắn, có khối lượng 0,7898g, loại MDMA; tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,9408g, loại Ketamine.

Quá trình điều tra, Bùi Kim N thừa nhận toàn bộ hành vị phạm tội của mình như đã nêu trên và khai nhận 0,3915g MDMA thu giữ trong túi xách là của N cất giữ để sử dụng. Lời khai của N phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản thu giữ vật chứng, lời khai nhân chứng cùng các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Riêng đối với số ma túy thu giữ trên bàn Vip 6 gồm 0,7898g MDMA và 0,9408g Ketamin thì N và các đối tượng Nguyễn Thanh T, Phạm Chí N, Vũ Thành K, Trần Bảo T, Lê Thị Thu Tr, Trần Thị Mỹ P, Nguyễn Thị Mỹ D, Vũ Thị Tuyết T, Vũ Thị Thu T, Nguyễn Công N T, Đỗ Toàn Th, Phan Văn U, Trần Thùy D khai không biết của ai. Lời khai của Nguyễn Thanh T, Phạm Chí N, Vũ Thành K, Trần Bảo T, Lê Thị Thu Tr, Trần Thị Mỹ P, Nguyễn Thị Mỹ D, Vũ Thị Tuyết T, Vũ Thị Thu T, Nguyễn Công N T, Đỗ Toàn Th, Phan Văn U, Trần Thùy D phù hợp lời khai của N nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X không xử lý N và các đối tượng trên đối với số ma túy này là có cơ sở.

Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã xác định.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 176/2019/HSST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Tuyên bố bị cáo Bùi Kim N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt Bùi Kim N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 04 tháng 8 năm 2019 đến ngày 09 tháng 8 năm 2019. Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

Ngày 06/12/2019, bị cáo Bùi Kim N có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm đã xác định và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa đưa ra ý kiến phát biểu: Sau khi xem xét tất cả lời khai, tình tiết trong hồ sơ vụ án, nhận thấy bản án sơ thẩm đã tuyên là đúng người, đúng tội và mức án phù hợp với tính chất cũng như mức độ của hậu quả đã xảy ra. Do bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết, chứng cứ nào mới nên đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, luật sư, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 26/11/2019, Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí minh xét xử sơ thẩm, đến ngày 06/12/2019 bị cáo Bùi Kim N có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo lập trong trong thời hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Kim N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó có đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 04/8/2019, bị cáo Bùi Kim N đã có hành vi tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng cho bản thân. Căn cứ Bản kết luận giám định số 1558/KLGĐ-H ngày 14/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định ma túy mà N tàng trữ là 01 viên nén màu xanh được xác định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3915 gam, loại MDMA.

Như vậy, Tòa án nhân dân Quận 1 đã xét xử bị cáo Bùi Kim N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Xét đơn kháng cáo của bị cáo:

Trong đơn kháng cáo và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo đang bị bệnh tim, đã ly hôn và hiện đang nuôi 02 con nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình, cha đã già yếu.

Xét hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo, khi lượng hình thì Tòa án cấp cơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ là: Bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; Bị cáo phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cung cấp thêm tình tiết: bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, đang nuôi con nhỏ. Tuy nhiên, xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Do đó, hình phạt 09 tháng tù mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là tương xứng và phù hợp với mức độ cũng như hậu quả của hành vi phạm tội. Xét không có cơ sở để chấp nhận đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

[4] Những lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Kim N và giữ nguyên bản án sơ thẩm số 176/2019/HSST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Bùi Kim N 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 04 tháng 8 năm 2019 đến ngày 09 tháng 8 năm 2019.

Phạt bị cáo số tiền 5.000.000 (năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

4. Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự và áp dụng Điều 22 và 23 Nghị quyết 326 quyết định về mức thu, miễn giám, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, cùng danh mục án phí, lệ phí toà án;

Bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

220
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 209/2020/HS-PT ngày 05/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:209/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về