Bản án 208/2020/HS-ST ngày 19/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 208/2020/HS-ST NGÀY 19/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 19 tháng 10 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 203/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 215/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1996; nơi sinh: An Giang; hộ khẩu thường trú: Ấp Vĩnh Lạc, xã V, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Kinh; giới T: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B và bà Trần Thị H; có vợ tên Nguyễn Thị Mỹ P (chưa đăng ký kết hôn) và 01 con; tiền án: Ngày 03/3/2020, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên xử phạt 30.000.000 đồng về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 39/2020/HS-ST (đã chấp hành xong ngày 17/5/2020); tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 11/7/2020, sau đó tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người làm chứng:

- Ông Nguyễn Hồng Phát; vắng mặt - Bà Nguyễn Thị Mỹ Pha; Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/7/2020, Công an phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên tiến hành kiểm tra phòng trọ của bị cáo Nguyễn Văn T tại khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương phát hiện 02 gói nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng. Nguyễn Văn T khai nhận chất tinh thể màu trắng bên trong túi nylon bị phát hiện là ma túy đá do T cất giữ nhằm mục đích sử dụng, nguồn gốc số ma túy này là do T mua của người tên Sơn tại khu phố Hòa Lân, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Công an phường Tân Hiệp lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, tạm giữ vật chứng, gồm:

- 02 gói nylon (01 gói nylon hàn kín và 01 gói nylon miệng kéo dính) bên trong chứa tinh thể màu trắng;

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy;

Công an phường Tân Hiệp lập hồ sơ ban đầu và tiến hành bàn giao Nguyễn Văn T cùng hồ sơ, vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Văn T thống nhất lời khai ban đầu.

Tại Kết luận giám định số 442/MT-PC09 ngày 17/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương xác định tinh thể màu trắng thu giữ của bị cáo có khối lượng 4,9575g, loại Methamphetamine.

Cáo trạng số 202/CT-VKSTU ngày 30/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy đối với lượng ma túy còn lại sau giám định và bộ dụng cụ sử dụng ma túy.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố. Tại phần tranh luận bị cáo không trình bày lời bào chữa cho mình; lời nói sau cùng, bị cáo đều nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, tỏ thái độ ăn năn, hối hận và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố.

[2] Về việc vắng mặt của người tham gia tố tụng: Tại phiên tòa, người làm chứng vắng mặt tuy nhiên quá trình điều tra đã có lời khai đầy đủ, việc vắng mặt của những người làm chứng không trở ngại cho việc xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người làm chứng.

[3] Về các yếu tố cấu thành tội phạm: Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng đồng thời phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, đủ cơ sở xác định: Ngày 11/7/2020, tại khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi cất giữ 4,9575g ma túy loại Methamphetamine trong phòng trọ của mình. Thời điểm thực hiện hành vi, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tự ý cất giữ ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì thái độ coi thường pháp luật mà cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước về lĩnh vực chất gây nghiện. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng truy tố cũng nhưng luận tội của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật [4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên được xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân của bị cáo: Bị cáo có thái độ chấp hành pháp luật không tốt, là đối tượng nghiện ma túy, không có công việc ổn định, sống chung như vợ chồng với người khác có con chung nhưng không đăng ký kết hôn, không đăng ký tạm trú theo quy định.

[6] Về mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Xét thấy mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là tương xứng với T chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo trên cơ sở đã cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Đối với 4,5712g ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, túy”.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma 1. Về trách nhiệm hình sự:

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù T từ ngày 11/7/2020.

2. Về xử lý vật chứng, áp dụng biện pháp tư pháp:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 4,5712g ma túy còn lại sau giám định trong bì thư niêm phong ký hiệu 442/P09; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 01/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên) 3. Về án phí sơ thẩm:

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án :

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2020/HS-ST ngày 19/10/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:208/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về