Bản án 208/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẦM DƠI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 208/2019/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 24 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đầm Dơi tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 333/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 7 năm 2019 về tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 345/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Cẩm H, sinh năm 1981; cư trú tại: Ấp TL, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Lê Minh H1, sinh năm 1983; cư trú tại: Ấp TL, xã TT, huyện ĐD, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Nguyễn Cẩm H trình bày:

- Về hôn nhân: Chị Nguyễn Cẩm H và anh Lê Minh H1 tổ chức đám cưới vào ngày 20/12/2007, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T T. Sau khi kết hôn anh chị sống riêng tại ấp TL, xã TT, huyện ĐD. Trong quá trình chung sống đến năm 2008 phát sinh mâu thuẫn do anh H1 thường hay nhậu, chửi mắng, đánh đập chị và ghen. Vào tháng 6/2019 chị có đi BD định đi làm vào dịp hai tháng nghĩ hè với anh H1 nhưng khi đến BD anh H1 tiếp tục ghen và cầm dĩa chọi trúng đầu chị bị thương ngay trán làm cho chị đến bệnh viện HH ở BD để khâu 15 mũi. Sự việc anh H1 thường xuyên nhậu, chửi đánh chị diễn ra trong thời gian dài nhưng do chị là giáo viên nên chị không cho gia đình biết và cũng không báo chính quyền địa phương để giải quyết. Từ trước đến nay anh H1 đều dùng những lời lẽ xúc phạm và đánh chị nhưng chị đều tha thứ nhưng lần này trước ngày anh H1 dùng dĩa chọi trúng đầu chị thì anh H1 cũng có dùng điện thoại chọi, đánh chị dẫn đến bầm tay. Chị và anh H1 ly thân vào tháng 6/2019 cho đến nay. Chị H xác định hiện nay không còn tình cảm và cương quyết ly hôn anh H1.

- Về con chung: Có hai người con chung tên Lê Nguyễn Bảo T, sinh ngày 11/12/2007 và Lê N, sinh ngày 30/8/2009, hiện nay đang do chị H và anh H1 nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị H yêu cầu được nuôi con, yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi hai con mỗi tháng 2.000.000 đồng (mỗi cháu1.000.000 đồng).

- Về tài sản chunng: Chị H và anh H1 tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ người khác, người khác nợ lại vợ chồng: Không có.

* Đối với bị đơn anh Lê Minh H1 trình bày:

- Về hôn nhân: Anh H1 và chị H tổ chức đám cưới vào ngày 20/12/2007 âm lịch, hôn nhân tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện Đầm Dơi. Trong quá trình chung sống anh chị chỉ xảy ra mâu thuẫn cự cải. Vào tháng 6/2019 anh đi làm tại BD thì chị H ở nhà có quan hệ đồng tính với người phụ nữ khác dẫn đến vợ chồng cự cải. Anh H1 xác định việc chị H trình bày anh chọi dĩa vào đầu là có vì do chị H khi lên BD làm thì người phụ nữ đó đi theo lên BD, anh có khuyên nhiều lần nhưng chị H không nghe nên anh có lỡ tay quăng dĩa trúng đầu chị H. Sau khi sự việc xảy ra thì anh có khắc phục hậu quả và sửa sai. Nay anh vẫn còn tình cảm với chị H nên không đồng ý ly hôn. Nguyên nhân chị H xin ly hôn anh là do chị H có quan hệ đồng giới với người phụ nữ khác, anh H1 yêu cầu Tòa án xác minh sự việc chị H có quan hệ tình cảm với người khác.

- Về con chung: Trường hợp Tòa án cho ly hôn anh đồng ý giao hai con cho chị H nuôi, đồng ý cấp dưỡng nuôi hai con mỗi cháu 1.000.000 đồng/tháng.

- Về tài sản chung: Anh H1 và chị H tự thỏa thuận phân chia, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ người khác, người khác nợ lại: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị H có đơn xin vắng mặt, anh H1 vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228, điểm a khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt chị H và anh H1.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Cẩm H và anh Lê Minh H1 kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Thuận, huyện Đầm Dơi vào ngày 05/02/2007 đúng theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp. Chị H có yêu cầu ly hôn, anh H1 không đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy, tại biên bản hòa giải ngày 19/8/2019 tại Tòa án chị H và anh H1 đều xác định giữa anh chị có mâu thuẫn. Anh H1 xác định có lỡ tay quăng dĩa trúng đầu chị H, sau khi sự việc xảy ra thì anh có khắc phục hậu quả và sửa sai. Căn cứ vào khoản 1 Điều 19 của Luật hôn nhân và gia đình quy định về tình nghĩa vợ chồng: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau....” và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình cũng quy định về ly hôn theo yêu cầu của một bên: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Từ các điều luật viện dẫn nêu trên cho thấy trong quá trình chung sống anh H1 đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ chồng và đã có hành vi bạo lực gia đình. Quá trình giải quyết vụ án chị H cũng không đồng ý đoàn tụ và xác định hiện nay không còn tình cảm, cương quyết xin ly hôn anh H1. Do đó, xét thấy mối quan hệ hôn nhân giữa anh chị không còn tồn tại, nếu tiếp tục duy trì cũng không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, cho chị H được ly hôn anh H1.

[3] Về con chung: Xét thấy hiện nay hai con chung được chị H và anh H1 nuôi dưỡng, anh H1 đồng ý giao hai con cho chị H nuôi. Tại biên bản V/v ghi ý kiến của con chung ngày 19/8/2019 Tại Tòa án cháu T và cháu N đều có nguyện vọng xin được ở mẹ là Nguyễn Cẩm H, việc này là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao hai cháu Lê Nguyễn Bảo T và Lê N cho chị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Vấn đề cấp dưỡng: Tại đơn khởi kiện ngày 25/6/2019 chị H yêu cầu anh H1 cấp dưỡng nuôi hai con 1.000.000 đồng/cháu/tháng nhưng tại Đơn đề nghị tòa án xét xử vắng mặt ngày 24/9/2019 chị H chỉ yêu cầu cấp dưỡng theo quy định của pháp luật. Tại khoản 2 Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Do đó, buộc anh H1 phải cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi cháu số tiền là 745.000 đồng/tháng.

[4] Về tài sản chung: Chị H và anh H1 tự thỏa thuận phân chia nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về nợ người khác và người khác nợ lại: Chị H và anh H1 xác định không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm chị H phải chịu theo quy định của pháp luật. Án phí cấp dưỡng nuôi con anh H1 phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 107, 110, 116, 117 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và Lệ phí tòa án;

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Cẩm H, cho chị Nguyễn Cẩm H được ly hôn anh Lê Minh H1.

2. Về nuôi con chung:

2.1. Giao con chung tên Lê Nguyễn Bảo T (nữ), sinh ngày 11/12/2007 và Lê N (nam), sinh ngày 30/8/2009 cho chị Nguyễn Cẩm H được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Buộc anh Lê Minh H1 phải cấp dưỡng nuôi hai con chung mỗi cháu số tiền là 745.000 đồng (bảy trăm bốn mươi lăm nghìn đồng)/tháng. Thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày 24/9/2019 cho đến khi cháu Lê Nguyễn Bảo T và Lê N đủ 18 tuổi.

2.2. Anh Lê Minh H1 không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí:

- Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Nguyễn Cẩm H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng tại biên lai số 0009591 ngày 05 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đầm Dơi; chị Nguyễn Cẩm H đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Lê Minh H1 phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Các đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 208/2019/HNGĐ-ST ngày 24/09/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:208/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đầm Dơi - Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về