TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 208/2017/HSST NGÀY 11/12/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 11 tháng 12 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện BìnhChánh, thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số211/2017/HSST ngày 07/11/2017 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê B; Sinh ngày 26/02/1999; Giới tính: Nam; Nơi sinh: Tỉnh T; Nơi ĐKHKTT: Ấp B, xã T, huyện C, Tỉnh Trà Vinh; Chỗ ở: Như trên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Không; Họ tên cha: Lê Văn Đ, sinh năm 1965; Họ tên mẹ: Nguyễn Thị N, sinh năm1977; Hoàn cảnh gia đình: Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Tạmgiam ngày 22/8/2017; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người bị hại: Em Trần Trọng P, sinh ngày 16/01/2002; Nơi ĐKHKTT: 553ấp S, xã N, huyện A, tỉnh K; Chỗ ở: 1447 Nguyễn Cửu Phú, ấp 1, xã T, huyện B,Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).
Người đại diện hợp pháp cho người bị hại: Bà Võ Thị Kim H, sinh năm1986; Nơi ĐKHKTT: 1447 Nguyễn Cửu Phú, ấp 1, xã T, huyện B, Thành phố HồChí Minh là chị ruột của người bị hại (Vắng mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Kim H, sinh năm 1986; Nơi ĐKHKTT: 1447 Nguyễn Cửu Phú, ấp 1, xã T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt).
NHẬN THẤY
Bị cáo Lê B bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên Lê B đã nảy sinh ý định tìm tài sản của người khác trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 19/3/2017, B đến tiệm “Nét Sài Gòn 2” tại địa chỉ 1447 Nguyễn Cửu Phú, ấp 1, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh. Tại đây, thấy cửa khép hở nên B đi vào thì thấy em Trần Trọng P (sinh năm 2000) đang nằm ngủ, kế bên có điện thoại di động hiệu OPPO F1S Golden, B lén lút lấy trộm điện thoại định bỏ đi ra ngoài; cùng lúc này B thấy người ở quán nét nên quay vào phía sau leo lên mái nhà để trốn. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, B xuống mái nhà thì bị em P và anh Lâm Hoàng T phát hiện. B quay ngược trở vào bên trong leo lên mái nhà và trốn vào bồn chứa nước kế bên nhà số 1451A Nguyễn Cửu Phú, ấp 1, xã Tân Kiên thì bị anh T và em P bắt giữ cùng vật với vật chứng giao Công an xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh. Công an xã Tân Kiên tiếp nhận đối tượng cùng vật chứng, lập hồ sơ ban đầu chuyển Công an huyện Bình Chánh điều tra, giải quyết theo thẩm quyền. Sau đó, B bỏ trốn, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã ra Quyết định truy nã, đến ngày 22/8/2017 thì bắt được B.
Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh thì Lê B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Căn cứ vào Kết quả định giá tài sản số 736/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày25/4/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Công an huyện Bình Chánh xác định: Điện thoại di động hiệu OPPO F1S Golden có giá trị là 5.391.000 đồng.
Vật chứng thu giữ được trong vụ án: 01 điện thoại di động hiệu OPPO F1SGolden.
Tại bản Cáo trạng số 200/CTr - VKS ngày 01/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố Lê B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay: Bị cáo Lê B đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình giống như lời khai tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời, thừa nhận hành vi phạm tội như bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh truy tố bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa, Vị đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa, sau khi nêu tóm tắt nội dung vụ án, phân tích tính chất của vụ án những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị xử phạt bị cáo Lê B từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự.
Người bị hại Trần Trọng P sinh ngày 16/02/2002, tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt. Trong đơn thể hiện đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu gì về dân sư. Người bị hại là người chưa thành niên theo qui định pháp luật phải có có luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chỉ định cho người bị hại. Tuy nhiên, người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn từ chối người bào chữa (BL: 114), trong quá trình điều tra lấy lời khai của người bị hại đều có sự chứng kiến của người đại diện hợp pháp của người bị hại là bà Võ Thị Kim H (chị ruột) người bị hại là đúng theo qui định pháp luật.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo;
XÉT THẤY
Lời khai nhận tội của bị cáo Lê B tại tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra (BL: 57 - 72); phù hợp với lời khai của người bị hại Trần Trọng P (BL: 73 - 78); phù hợp với lời khai của người làm chứng Lâm Hoàng T (BL: 79 -82); phù hợp với nội dung Cáo trạng truy tố. Vụ án còn được chứng minh qua hoạt động điều tra như biên bản lấy lời khai, thu giữ vật chứng, kết quả định giá tàisản…cùng các chứng cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Vào ngày 19/3/2017, bị cáo Lê B đã có hành vi lén lút trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu OPPP F1S Golden của em Trần Trọng P tại tiệm “Nét Sài Gòn 2” ở địa chỉ 1447 đường Nguyễn Cửu Phú, ấp 1, xã Tân Kiên, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh có giá trị là 5.391.000 đồng (Theo Công văn số 736/HĐĐG - TTHS - TCKH ngày 25/4/2017 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh).
Với những tình tiết được chứng minh tại phiên tòa hôm nay có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê B đã phạm vào tội "Trộm cắp tài sản" tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự; nên Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng bản tính tham lam, muốn có tiền tiêu xài cho bản thân mà không chịu lao động chân chính nên bị cáo đã cố ý phạm tội. Tội phạm bị cáo thực hiện là nguy hại cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội tại địa phương. Do đó, khi lượng hình cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.
Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã tỏ thái độ thành khẩn khai báo, biết ăn năn hối cải về hành vi của mình, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi giao trả cho người bị hại, thiệt hại chưa xảy ra. Hội đồng xét xử nghĩ có chiếu cố giảm nhẹ phần nào khi quyết định hình phạt đối với bị cáo theo điểm p, h, g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản chiếm đoạt và không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra giải quyết.
Về vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPP F1S Golden, qua xác minh điện thoại này của bà Võ Thị Kim H (chị ruột của người bị hại), bà Hương mua vào năm 2016 để sử dụng; sau đó cho em trai là Trần Trọng P quản lý, sử dụng. Cơ quan điều tra đã làm thủ tục giao trả cho người bị hại theo Biên bản về việc trả lại tài sản được lập vào hồi 14 giờ 30 phút ngày 29/6/2017, Hội đồng xét xử ghi nhận.
Ở dạng tội phạm này, ngoài hình phạt tù ra bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn. Nghĩ, khôngáp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo qui định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lê B đã phạm tội "Trộm cắp tài sản".
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p, h, g khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê B 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/8/2017. Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Lê B.
Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng Hình sự và Nghị quyết số326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày tuyên án; Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, tính từ ngày nhận toàn sao bản án hoặc bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.
Bản án 208/2017/HSST ngày 11/12/2017 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 208/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về