Bản án 207/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội chiếm giữ trái phép tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 207/2019/HSST NGÀY 17/09/2019 VỀ TỘI CHIẾM GIỮ TRÁI PHÉP TÀI SẢN

Ngày 17/9/2019, tại Trụ sở Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình S thụ lý số 196/2019/HSST ngày 09 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 199/2019/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Văn L, sinh năm 1999; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Xóm 1 xã Giao Hà, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lái xe; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Văn S, sinh năm 1973; Con bà: Phùng Thị X, sinh năm 1975; Tiền án, tiền S: không có.

Theo Danh chỉ bản số 000000329 lập ngày 13/05/2019 tại Công an quận Nam Từ Liêm.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp tạm giữ từ ngày 10/5/2019 đến ngày 17 tháng 5 năm 2019 hủy bỏ quyết định tạm giữ, hiện bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Bùi Văn S, sinh năm 1999; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: Xóm 7 xã Giao Hà, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Bùi Thanh H, sinh năm 1973; Con bà: Nguyễn Thị D, sinh năm 1977; Tiền án, tiền S: 1 tiền S cụ thể:

- Ngày 20/9/2018, UBND xã Giao Hà, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định ra Quyết định xử phạt hành chính 5.000.000 đồng về hành vi Đào ngũ.

Theo Danh chỉ bản số 000000324 lập ngày 13/05/2019 tại Công an quận Nam Từ Liêm.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 10/5/2019 đến ngày 17 tháng 5 năm 2019 hủy bỏ quyết định tạm giữ, hiện bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú.

Người bị hại: Anh Sin Sang Chul, sinh năm 1973; Quốc Tịch: Hàn Quốc; Tạm trú tại phòng A1 2306 Vinhomes gardenia, phố Hàm Nghi, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Hoàng Ích Hữu, sinh năm 1991; Đăng ký NKTT: Xóm Nậm Lìn, thị trấn Trùng Khánh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng (Vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Tuấn Anh, sinh năm 1977; Đăng ký NKTT: Thôn Ấp Tó, xã Uy Nỗ, huyện Đông Anh, Hà Nội (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Phạm Văn L và Bùi Văn S bị Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 23h ngày 06/5/2019, anh Sin Sang Chul sau khi hát karaoke tại quán Dòng Sông Hàn số 17 Trần Duy Hưng, thuộc phường Trung Hòa, quận Cầu Giấy, Hà Nội xong thì có nhờ anh Đinh Thanh Tiến (SN: 1988 – NKTT: phường Bến Thủy, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) là lễ tân quán karaoke gọi hộ taxi để về. Anh Tiến đã gọi và đưa anh Chul lên xe taxi hãng Sông Hồng mang biển kiểm soát: 30A-372.51 do Phạm Văn L điều khiển. Anh Sin Sang Chul lên xe và yêu cầu L trở về đường Hàm Nghi. Khi đi đến đường Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội do mâu thuẫn về lộ trình đi nên anh Chul yêu cầu L dừng lại và xuống xe, giữa anh Chul và L đã xảy ra tranh cãi va chạm. L đã cầm toovit đánh anh Chul nên anh Chul bỏ chạy và để lại trên xe taxi 01 chiếc túi xách màu xanh, bên trong có số tiền 90.500.000 đồng và 2400USD (Đô la Mỹ); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S7 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S8 Plus cùng các giấy tờ tùy thân mang tên Sin Sang Chul. Sau khi anh Chul bỏ chạy, L điều khiển xe taxi đi đến đường Phạm Hùng, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì dừng lại và phát hiện tại ghế sau xe có một chiếc túi xách bằng da màu xanh và 01 chiếc áo Vest, biết số tài sản trên là của anh Chul bỏ lại, L kiểm tra thấy bên trong túi xách có tiền nên đã gọi điện thoại nói cho Bùi Văn S (Bạn ở cùng phòng trọ) biết S việc và bảo S về phòng trọ đếm tiền, S đồng ý. Khoảng 01h ngày 07/05/2019, S điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda BKS: 29D1-02368 đến chung cư Hồng Hà, Thịnh Liệt, thuộc quận Hoàng Mai đón L cùng số tài sản lấy của anh Chul về nhà trọ tại số 03/38/88 đường Giáp Nhị, Thịnh Liệt, Hoàng Mai, Hà Nội. Tại đây, L và S mở túi kiểm tra, phát hiện 2 phong bì để số tiền 80.000.000 đồng và 01 phong bì để 2000USD. Khi L và S đang đếm tiền thì chị Nguyễn Thị Hoa (SN: 1996-NKTT: Ngọc Thanh, Phúc Yên, Vĩnh Phúc) là bạn gái của anh Chul gọi điện thoại đến số 0969012351 của L để hỏi về tài sản của anh Chul và yêu cầu L trả lại. Khi thấy L nói chuyện với chị Hoa xong thì S hỏi L “Vừa nói chuyện với ai”, L nói “Bạn của khách Hàn Quốc”. Lúc này do L và S có ý định chiếm đoạt số tài sản trên của anh Chul nên cả hai đã bàn nhau cất giấu số tài sản trên tại nhà trọ, còn chiếc túi và giấy tờ sẽ mang đến khu vực đường Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội vứt và thống nhất nói với chị Hoa là sau khi anh Chul xuống xe đã vứt đồ tại hiện trường. Sau đó L đã sử dụng xe taxi BKS: 30A – 372.51 chở S đi vứt túi xách và áo, khi lên xe taxi, S phát hiện một chiếc ví cầm tay màu đen bên trong có 400USD và 500.000 đồng nên đã lấy tiền đưa cho L, còn chiếc ví, túi xách và áo Vest cùng giấy tờ tùy thân thì L và S Vứt lại tại giải phân cách cứng đối diện cổng phụ của Cục Đăng kiểm Việt Nam trên đường Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội, sau đó cả hai đi về phòng trọ ngủ. Đến khoảng 11h ngày 07/05/2019, do lo sợ việc bị phát hiện nên L nói với S đến chỗ đã vứt túi xách để tìm lại giấy tờ trả lại cho anh Chul, còn tiền và 2 chiếc điện thoại di động thì L và S thống nhất không trả lại. L hứa sẽ cho S 10.000.000 đồng để học bằng lái xe ô tô, S đồng ý nhưng do không tìm thấy chiếc túi và các giấy tờ chủa anh Chul nên S bàn với L sẽ đi xe khách vào Sài Gòn, khi cả hai đi đến địa phận tỉnh Thanh Hóa thì xuống xe quay trở lại Hà Nội với mục đích tìm cách đối phó khi cơ quan Công an triệu tập. Quá trình đi trốn, L và S đã tiêu hết 2.500.000 đồng.

Đến khoảng 13h ngày 08/05/2019, do chị Hoa gọi điện cho L nhiều lần để yêu cầu chỉ địa điểm vứt chiếc túi xách thì L hẹn chị Hoa ra đường Nguyễn Hoàng gặp người xe ôm sẽ chỉ vị trí vứt tài sản của anh Chul, sau đó L đã bảo S đóng giả làm xe ôm đến gặp chị Hoa để chỉ vị trí vứt tài sản, khi S đến nơi thì bị Công an phường Trung Hòa, Cầu Giấy kiểm tra, bắt giữ và bàn giao cho Công an quận Nam Từ Liêm để giải quyết.

Khoảng 2h30 ngày 7/5/2019, anh Phùng Văn Long (SN: 1991 – NKTT: Xã Kim Thượng huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ) điều khiển xe tải đi đến khu vực ngã tư đường Nguyễn Hoàng, phường Mỹ Đình 2, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì phát hiện túi xách trong đó có 10.000.000 đồng cùng một số tài sản của anh Chul mà S và L đã vứt lại trước đó nên đã nhặt giao nộp cho cơ quan điều tra.

Vật chứng thu giữ:

- Thu giữ của anh Phùng Văn Long: 10.000.000 đồng; 01 túi xách màu xanh, kích thước khoảng 30 x 40cm; 01 con dấu tròn; 01 giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH BONOTOX Việt Nam; 01 Passport mang tên Kim Wang Kyu và 03 thẻ mang tên Sin Sang Chul.

- Thu giữ của Phạm Văn L: số tiền 78.000.000 đồng; 2000 USD; 01 điện thoại S8 màu đen đã qua sử dụng có chữ AUTO FoCus; 01 điện thoại Samsung S7 màu bạc đã qua sử dụng; 01 ốp lưng điện thoại màu bạc bên trong màu đen; 01 ốp lưng điện thoại màu xanh bên trong màu đen; 02 thẻ sim điện thoại (01 sim Hàn Quốc, 01 sim Vinaphone); 01 thẻ nhớ 64GB có chữ Samsung; 01 ô tô màu bạc, nhãn hiệu Kia morning, BKS: 30A – 372.51; 01 tô-vít dài khoảng 30cm, một đầu gắn cao su màu đen, màu đỏ, một đầu nhọn 4 cạnh; 01 điện thoại Iphone 6Plus màu xám- đen 16 GB, số IMEI: 353336070422671; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen.

- Thu giữ của Bùi Văn S: 04 tờ tiền loại 100 USD; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha màu trắng BKS: 29D1 – 02368, số khung RLHHC1210DY091428; số máy: HC12E-5091518; 01 điện thoại di động OPPO CPH 1729 màu đen lắp 01 sim số0365301891 có IMEI: 867609038869731; IMEI 2: 8670903869723.

- Thu giữ của anh Sin Sang Chul: 01 đồng hồ For mula 1 Tag Heuer, mặt sau có chữ Waz 1112, WPP 4931, STAINLESS STEEL, mặt kính phía trên bị vỡ, màu trắng.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 266 ngày 10/06/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình S quận Nam Từ Liêm, xác định:

- 01 túi xách bằng da màu xanh, mặt trước có chữ Hazzys, kích thước (30x40cm), đã qua sử dụng trị giá: 1.000.000 đồng;

- 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S8 Plus, màu đen, Imei: 357285674556623, đã qua sử dụng, hiện vẫn sử dụng được trị giá: 5.000.000 đồng;

- 01 điện thoại nhãn hiệu Samsung Galaxy S7, màu bạc, Imei: 357285095064339, đã qua sử dụng, hiện vẫn sử dụng được trị giá: 3.000.000 đồng;

- 01 ốp điện thoại màu bạc, mặt bên trong màu đen, đã qua sử dụng trị giá: 50.000 đồng;

- 01 ốp điện thoại màu xanh, mặt bên trong màu đen, đã qua sử dụng trị giá: 50.000 đồng;

- 02 sim điện thoại trị giá: 50.000 đồng;

- 01 thẻ nhớ nhãn hiệu Samsung dung lượng 64GB trị giá: 200.000 đồng;

- 01 chiếc ví cầm tay dạng ví gấp bên ngoài màu đen, bên trong màu xanh dương không rõ nhãn hiệu và 01 chiếc áo Vest không rõ nhãn hiệu. Không đủ cơ sở định giá tài sản.

Tỷ giá USD ngày 07/5/2019: 1 USD = 23.320 đồng Việt Nam.

Tổng giá trị 2.400USD = 55.968.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Phạm Văn L và Bùi Văn S đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Đối với chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu trắng, đeo BKS: 29D1- 023.68, số khung RLHHC 1210 DY 091428, số máy: HC12E-5091518 qua điều tra xác định là xe của anh Hoàng Hữu Ích bị mất trộm ngày 26/2/2018 tại phòng trọ số 50/71 đường Mễ Trì, Nam Từ Liêm, Hà Nội, xe có BKS: 11K1- 041.90. Bùi Văn S khai mua xe trên của một người đàn ông (Không xác định được nhân thân) qua mạng Internet vào tháng 2/2019 tại khu vực Mỹ Đình, Nam Từ Liêm, Hà Nội với giá 5.000.000 đồng. Khi mua không có giấy đăng kí xe, người đàn ông bán xe cho S nói đã làm mất đăng ký xe.

Tại bản Kết luận giám định số 4526/ KL-PC09-DD3 ngày 17/07/2019 của Phòng kỹ thuật Hình S Công an thành phố Hà Nội, xác định: Xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha đeo biển kiểm soát: 29D1-023.68 gửi giám định, hiện tại có số khung: RLHHC 1210 DY 091428, số máy: HC12E-5091518 là số nguyên thủy; Không giám định BKS: 29D1-023.68 do không có mẫu so sánh.

Đối với chiếc BKS: 29D1-023.68, qua điều tra xác định mang tên chị Phan Thị Minh Hòa (SN: 1982 – NKTT: số 5, Hàn Thuyên, phường Phạm Đình Hổ, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội). Chị Hòa khai đã mua và đăng ký chiếc xe máy loại PIAGGIO màu vàng từ 12/4/2011 và hiện nay vẫn đang sử dụng.

Đối với chiếc xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning BKS: 30A – 372.51 thu giữ của Phạm Văn L, L khai là xe thuê của anh Nguyễn Tuấn Anh để đi lái taxi, có hợp đồng thuê xe.

Đối với hành vi đánh anh Sin Sang Chul của Phạm Văn L, do thương tích không đáng kể nên anh Chul từ chối giám định thương tích và không yêu cầu bồi thường về dân S.

Ngày 30/05/2019, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng, trao trả anh Sin Sang Chul: 01 điện thoại Samsung Galaxy S8 Plus, màu đen, Imei: 357285674556623; 01 điện thoại Samsung Galaxy S7 màu bạc, Imei: 357285095064339; số tiền 88.000.000 đồng; 2.400 USD; 01 túi xách màu xanh kích thước 30x40cm, mặt trước có chữ Hazzys; 01 ốp điện thoại màu bạc, mặt bên trong màu đen; 01 ốp điện thoại màu xanh, mặt bên trong màu đen; 02 sim điện thoại; 01 thẻ nhớ nhãn hiệu Samsung 64GB; 01 con dấu hình tròn Công ty TNHH BONOTOX Việt Nam; 01 giấy đăng ký kinh doanh, thuộc Công ty TNHH BONOTOX Việt Nam; 01 Passport mang tên Kim Wang Kyu; 03 thẻ mang tên Sin Sang Chul và 01 đồng hồ For mula 1 Tag Heuer, mặt sau có chữ Waz 1112, WPP 4931, STAINLESS STEEL, mặt kính phía trên bị vỡ, màu trắng.. Đối với chiếc đồng hồ For mula 1 Tag Heuer bị vỡ mặt kính cùng chiếc áo Vest, 01 chiếc ví cầm tay, 01 con dấu tên anh Chul (Không thu giữ được) cùng số tiền 2.500.000 đồng do L và S đã chi tiêu hết, anh Chul không có yêu cầu bồi thường về nhân S.

Ngày 12/7/2019, cơ quan đã trao trả Phạm Văn L: 01 ốp điện thoại màu đen có chữ Auto Focus.

Ngày 17/5/2019, cơ quan điều tra đã trao trả anh Nguyễn Tuấn Anh: 01 xe ô tô nhãn hiệu Kia Morning BKS: 30A – 372.51, anh Tuấn Anh nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân S.

Ngày 11/7/2019, cơ quan điều tra đã trao trả anh Hoàng Ích Hữu: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha đeo BKS: 29D1-023.68, anh Hữu nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác về dân S.

Về dân Sự:

- Anh Sin Sang Chul không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân S.

Tại bản Cáo trạng số 214/QĐ-VKSNTL, ngày 06/8/2019 Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã quyết định truy tố hai bị cáo Phạm Văn L và Bùi Văn S về tội “Chiếm giữ trái phép tài sản” theo Khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa :

- Các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố là đúng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo;

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm giữ nguyên quyết định của bản cáo trạng đã truy tố, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình S và đề nghị Hội đồng áp dụng Khoản 1 Điều 176; Điểm h, i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Văn L, xử phạt bị cáo Phạm Văn L mức án từ 12 đến 15 tháng tù. Áp dụng Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, Xử phạt bị cáo Bùi Văn S mức án từ 9 đến 12 tháng tù;

- Về dân Sự: Không;

Về vật chứng:

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số điện thoại của các bị cáo;

- Buộc các bị cáo phải nộp số tiền 2500.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của các bị cáo;

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

[1] Khoảng 23h ngày 06/5/2019, tại khu vực tòa nhà Mỹ Đình Plaza 2, đường Nguyễn Hoàng, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Phạm Văn L và Bùi Văn S đã có hành vi chiếm giữ trái phép: 01 túi xách bằng da màu xanh, 01 điện thoại Samsung galaxy S8 Plus màu đen, 01 điện thoại Samsung galaxy S7 màu bạc, 01 ốp điện thoại màu bạc, 01 ốp lưng điện thoại màu xanh, 02 thẻ sim điện thoại, 01 thẻ nhớ nhãn hiệu Samsung dung lượng 64GB, 90.500.000 đồng và 2.400 USD của anh Sin Sang Chul. Tổng giá trí tài sản hai bị cáo Phạm Văn L và Bùi Văn S đã chiếm giữ là 155.818.000 đồng.

- Anh Sin Sang Chul không yêu cầu bồi thường về dân S;

[2] Hành vi trên của hai bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành “Tội chiếm giữ trái phép tài sản” với giá trị tài sản hai bị cáo chiếm giữ, hai bị cáo không phải chịu tình tiết định khung tăng nặng nào, vì vậy buộc hai bị cáo phải chịu trách nhiệm hình S theo quy định tại Khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của hai bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân và đặc bệt là gây tâm lý lo lắng đối với người nước ngoài ở Việt Nam, do đó đối với hai bị cáo cần phải lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà hai bị cáo đã gây ra.

Đánh giá về nhân thân của hai bị cáo thì bị cáo Phạm Văn L chưa có tiền án tiền S. Bị cáo Bùi Văn S chưa có tiền án nhưng lại có một tiền S về hành vi Đào ngũ chưa được xóa;

Xét trai trò của các bị cáo trong vụ án thấy:

Bị cáo Phạm Văn L sau khi biết được người bị hại để lại tài sản trên xe, bị cáo đã rủ bị cáo Bùi Văn S để bàn cách chiếm giữ số tài sản của người bị hại nên bị cáo Phạm Văn L phải chịu trách nhiệm hình S chính, mức án phải cao hơn bị cáo S và cũng cần cách ly hai bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo giáo dục đối với hai bị cáo.

Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng xem xét: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, bị cáo Phạm Văn L phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo Bùi Văn S lần đầu bị đưa ra xét xử, số tài sản các bị cáo chiếm giữ đã được thu hồi gần hết trả lại cho người bị hại, người bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân S, những tình tiết giảm nhẹ trên được quy định tại Điểm i, s, h Khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phạm Văn L. Đối với bị cáo Bùi Văn S có một tiền S nên áp dụng Điểm h, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về dân S: Đối với chiếc đồng hồ For mula 1 Tag Heuer bị vỡ mặt kính cùng chiếc áo Vest, 01 chiếc ví cầm tay, 01 con dấu tên anh Chul (Không thu giữ được) cùng số tiền 2.500.000 đồng do L và S đã chi tiêu hết, anh Sin Sang Chul không có yêu cầu bồi thường về dân S nên Tòa không xét.

- Đối với số tiền 2.500.000 đồng là tiền do phạm tội mà có nên cần buộc các bị cáo phải truy nộp để sung quỹ Nhà nước.

- Anh Nguyễn Tuấn Anh đã cho bị cáo L thuê xe ô tô để đi lái taxi, có hợp đồng thuê xe rõ ràng, anh Tuấn Anh đã được Công an trao trả chiếc xe ô tô nhãn hiệu hiệu Kia Morning BKS: 30A-372.51 và không có yêu cầu gì khác về dân S; Đối với chiếc xe máy Honda Wave Alpha màu trắng BKS: 29D1-023.68 bị cáo Bùi Văn S đi không có giấy đăng ký xe, Công an quận Nam từ Liêm xác định là của anh Hoàng Ích Hữu bị mất trộm ngày 26/02/2018 tại phòng trọ, đã được Công an trao trả anh Ích, anh Ích cũng không có yêu cầu gì khác về dân S nên Tòa không xét.

[5] Về vật chứng: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra có thu giữ của Phạm Văn L 01 tô-vít dài khoảng 30cm, một đầu gắn cao su màu đen, màu đỏ, một đầu nhọn 4 cạnh; 01 điện thoại Iphone 6Plus màu xám- đen 16 GB, số IMEI: 353336070422671; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen;

- Thu giữ của Bùi Văn S 01 điện thoại di động OPPO CPH 1729 màu đen lắp 01 sim số0365301891 có IMEI: 867609038869731; IMEI 2: 8670903869723. Những vật chứng trên có liên quan đến tội phạm, vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà Nước.

[6] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với vụ án: Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 176 Bộ luật hình sự năm 2015 là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo.

[7] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Hà Nội; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Đối với các bị cáo, tại quá trình điều tra không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Phạm Văn L và Bùi Văn S phạm tội “Chiếm giữ trái phép tài sản”.

2. Áp dụng: Khoản 1 Điều 176; Điểm h, i, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Phạm Văn L 15 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/5/2019 đến ngày 17/5/2019.

3. Áp dụng: Khoản 1 Điều 176; Điểm h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 38; Bộ luật hình sự năm 2015:

- Xử phạt bị cáo Bùi Văn S 9 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Được trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/5/2019 đến ngày 17/5/2019.

4. Về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106; Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình S năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 tô-vít dài 30cm, một đầu gắn cao su màu đen- đỏ, một đầu nhọn 4 cạnh; 01 điện thoại Iphone 6Plus màu xám- đen lắp sim số 0375500923; 01 điện thoại Nokia 105 màu đen lắp sim số 0969012351; 01 điện thoại di động OPPO CPH 1729 màu đen lắp 01 sim số 0365301891 (Cả ba điện thoại không bật được nguồn nên không kiểm tra được Imei). Theo Biên bản giao nhận vật chứng số 186 ngày 6 tháng 8 năm 2019 giữa Công an quận Nam Từ Liêm và Chi cục Thi hành án dân S quận nam Từ Liêm.

Buộc hai bị cáo Phạm Văn L và Bùi Văn S phải nộp 2.500.000 đồng tiền do phạm tội mà có để sung quỹ Nhà nước, kỷ phần mỗi bị cáo phải nộp là 1.250.000 đồng.

- Hai bị cáo Phạm Văn L và Bùi Văn S mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình S sơ thẩm.

- Hai bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án;

- Người bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1137
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 207/2019/HSST ngày 17/09/2019 về tội chiếm giữ trái phép tài sản

Số hiệu:207/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về