Bản án 207/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 207/2018/HS-ST NGÀY 30/11/2018 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 30 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 206/2018/TLST-HS ngày 14 tháng 11 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 213/2018/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2018 đối với:

* Bị cáo: Nguyễn Công T, sinh năm 1988.

ĐKHKTT: thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh;

Nghề nghiệp: lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Công T1, SN 1952 và bà Nguyễn Thị Y, SN 1955

Vợ, con: chưa có

Tiền án: Không

Tiền sự: có 01. Ngày 13/02/2015 bị Công an thị xã Từ Sơn phạt hành chính (phạt tiền) về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”. Bị cáo chưa nộp phạt

Nhân thân:

- Ngày 27/3/2009 bị Công an huyện Tiên Du phạt hành chính (phạt tiền) về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”

- Ngày 27/3/2009 bị Công an huyện Tiên Du phạt hành chính (phạt tiền) về hành vi “Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác”

- Ngày 17/6/2011 bị Chủ tịch UBND huyện Tiên Du quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính Cai nghiện bắt buộc, thời hạn 02 năm. Chấp hành xong ngày 28/6/2013.

- Tại bản án số 68 ngày 26/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/4/2016

Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 08/10/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa

* Bị hại: Bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1965 (đề nghị xét xử vắng mặt)

Địa chỉ: thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: khoảng 09 giờ ngày 04/10/2018, tại thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Công T đã đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị B, trộm cắp được số tiền 500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai màu vàng đựng trong 01 hộp nhựa màu đỏ. Cùng ngày, T bị triệu tập lên cơ quan Công an làm việc, tại đây, T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, đồng thời giao nộp chiếc hộp nhựa bên trong có 02 khuyên tai màu vàng. Đối với số tiền 500.000 đồng T đã tiêu hết.

Tại bản kết luận giám định số 1037/KLGĐ-PC 09 ngày 05/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “02 chiếc khuyên tai bằng kim loại màu vàng gửi giám định là kim loại Vàng, trọng lượng 02 chỉ, hàm lượng vàng 99,70%”

Tại biên bản họp định giá ngày 10/10/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận: “02 chiếc khuyên tai vàng loại 99,70% trọng lượng 02 chỉ, giá trị là 6.860.000 đồng”

Như vậy, tổng số tài sản bị cáo trộm cắp được tại nhà bà B là 7.360.000 đồng

Với nội dung trên, bản cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 13/11/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã quyết định truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Tiên Du để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Công T về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận: Bị cáo thường xuyên sử dụng ma túy, do không có tiền chi tiêu nên buổi sáng ngày 04/10/2018, bị cáo đi quanh thôn xem nhà ai có tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khoảng 09 giờ cùng ngày, bị cáo đi qua nhà bà B, biết gia đình bà B không có ai ở nhà nên bị cáo đi theo lối vườn phía sau nhà vào trong sân. Bị cáo quan sát thấy ô thoáng bằng kính phía trên cửa chính mở hé nên đã trèo theo lối đó vào trong nhà. Tại phòng ngủ tầng 1, bị cáo lục tìm tài sản thì lấy được số tiền 500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai màu vàng đựng trong 01 hộp nhựa mầu đỏ bà B để trong túi xách màu đỏ. Bị cáo cất toàn bộ tài sản vừa trộm cắp được vào túi quần rồi theo lối cũ trèo ra ngoài. Bị cáo đã chi tiêu hết số tiền 500.000 đồng. Quá trình điều tra, bị cáo đã giao nộp chiếc hộp nhựa màu đỏ bên trong đựng 02 chiếc khuyên tai. Ngoài ra, bị cáo không bị thu giữ tài liệu đồ vật nào khác. Đến nay bị cáo đã bồi thường cho bà B số tiền 500.000 đồng.

Bị hại là bà Nguyễn Thị B xin xét xử vắng mặt, quá trình điều tra bà đã được nhận tài sản và bà không có yêu cầu gì đối với bị cáo. Đồng thời bà đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 163/CT-VKS ngày 13/11/2018 . Trong phần luận tội đã phân tích nguyên nhân, tính chất, mức độ nguy hiểm cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm b, s khoản 1, 2 điều 51; điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Công T từ 8 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Không đề nghị giải quyết.

Bị cáo sau khi nghe luận tội của Đại diện Viện kiểm sát thừa nhận có tội, không tranh luận về tội danh và hình phạt áp dụng mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời trình bày của bị hại, người làm chứng, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 09 giờ ngày 04/10/2018, tại nhà bà Nguyễn Thị B ở thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Công T đã lén lút trộm cắp của gia đình bà B số tiền 500.000 đồng và 02 chiếc khuyên tai bằng vàng có giá trị 6.860.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã trộm cắp nhà bà B là 7. 360.000 đồng. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người,  đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Gây hoang mang, lo lắng cho người có tài sản, gây bất bình trong quần chúng nhân dân. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

Xét về nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu, ham chơi, đua đòi, bị bạn bè xấu rủ rê lôi kéo đã sử dụng trái phép chất ma túy bị Công an thị xã Từ Sơn xử phạt hành chính năm 2015 nhưng chưa nộp tiền do vậy xác định bị cáo có 01 tiền sự. Ngoài ra còn bị chủ tịch UBND huyện Tiên Du quyết định áp dụng biện pháp đưa đi cai nghiện bắt buộc với thời hạn 2 năm. Bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và “Chiếm giữ trái phép tài sản của người khác”. Bị cáo đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”. Tuy đã được xóa án tích, xóa tiền sự nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân lại tiếp tục phạm tội. Điều đó thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo, nên đối với lần phạm tội này, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.

Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đồng thời bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo là đối tượng không có việc làm ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì đối với bị cáo nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết

Về xử lý vật chứng: Tài sản trộm cắp đã trả lại cho người bị hại là đúng quy định của pháp luật nên không xem xét.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”

2. Hình phạt: xử phạt bị cáo Nguyễn Công T 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 207/2018/HS-ST ngày 30/11/2018 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:207/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về