Bản án 206/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội cướp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 206/2020/HS-ST NGÀY 17/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 12 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 203/2020/TLST-HS ngày 27 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 151/2020/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Phạm Quốc E - Sinh năm: 1990; Trú quán: Xóm 2D, M, N, Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Họ và tên bố: Phạm Văn V, sinh: 1954 ( đã chết); Họ và tên mẹ: Trần Thị L, sinh: 1958; Họ và tên vợ: Trần Thị T, sinh: 1995; Có 02 con, con lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2019; Gia đình có 05 chị em, bị cáo là con thứ năm.Tiền án, tiền sự: Không.

Tạm giữ từ ngày 12/8/2020, chuyển tạm giam từ ngày 21/8/2020. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2 – Công an thành phố Hà Nội.

Người bị hại:

(Có mặt tại phiên tòa).

Anh Nguyễn Mạnh T – Sinh năm 1995 Địa chỉ: Thôn M, xã G, huyện K, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Anh Phạm Văn Bắc – Sinh năm 1991 Địa chỉ: Xóm 17, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định

Anh Đặng Văn Tý – Sinh năm 1984 Địa chỉ:Xóm 1, xã V, huyện N, tỉnh Nam Định (Anh T, anh Bắc, anh Tý có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 06/8/2020, Công an thị trấn R, K tiếp nhận đơn trình báo của anh Nguyễn Mạnh T, sinh: 1995, HKTT: Thôn M, G, K, Hà Nội, về việc: Khoảng 22 giờ ngày 06/8/2020, anh T cùng bạn là Đỗ Ngọc N,sinh: 1992, HKTT: Thôn M, G, K, Hà Nội chở nhau trên chiếc xe máy Honda Dream BKS: 30N9-0096 do T điều khiển. Khi đi đến đường X, thì bị 03 nam thanh niên đi xe máy dạng Wave màu đỏ tạt đầu xe, cầm gạch ném T và Nam. T và Nam sợ vứt lại xe máy bỏ chạy. Khi quay lại, T phát hiện bị mất xe máy Honda Dream BKS: 30N9-0096.

Ngày 12/8/2020, Phạm Quốc E đến Công an huyện K đầu thú và giao nộp cho Cơ quan điều tra – Công an huyện K: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream màu nâu, BKS: 30 N9-0096, số máy: 1355555, số khung 055540, đã qua sử dụng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 175 ngày 18/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện K, kết luận: 01 chiếc xe máy loại Honda Dream, màu nâu, BKS: 30N9-0096, số máy: 1355555, số khung 055540, đã qua sử dụng có giá trị: 7.500.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Phạm Quốc E khai nhận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/8/2020, E cùng Nguyễn Văn Bắc và Đặng Văn Tý (tức Đồng) đi ăn liên hoan ở Ái Mộ, R, K về, khi đến đoạn đường đê gần cầu Đuống rẽ ra đường T, thị trấn R, K, Hà Nội thì gặp Nguyễn Mạnh T đi xe máy Honda Dream BKS: 30N9- 0096 chở Đỗ Ngọc N đi cùng chiều. Vì cho rằng nhóm của E tạt đầu xe của mình nênT và Nam rồ ga đuổi theo xe của E, đuổi đến ngang xe của E thì T có nhổ nước bọt về phía xe của E. E điều khiển xe bỏ chạy, T tiếp tục đuổi theo. Khi gần đến đoạn rẽ vào cầu Đuống thì E thấy một đống gạch xây dựng bên lề đường. E dừng xe, cả ba người gồm E, Bắc và Tý xuống xe lấy gạch ném về phíaT và Nam. T và Nam sợ nên đã vứt lại chiếc xe máy BKS: 30N9-0096 và bỏ chạy ngược về hướng đường X. Thấy vậy E, Bắc và Tý không đuổi nữa vàlên xe đi về. Tý điều khiển xe chở Bắc ngồi giữa, E ngồi sau cùng. Khi đã đi được khoảng 20 mét, E quay lại phía sau không thấy T và Nam nên E nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy do T bỏ lại. Để thực hiện được mục đích của mình, E bảo Bắc và Týtiếp tục chạy đi, còn mình nhảy xuống xe lại gần xe máy củaT. Thấy chìa khóa xe vẫn cắm ở ổ khóa nên E dựng xe và điều khiển về phòng trọ của mình ở Xuân Phương, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Việc E quay lại chiếm đoạt chiếc xe máy của anh T thì Bắc và Tý hoàn toàn không biết.

Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện K đã T hành thân dẫn bị cáo Phạm Quốc E đến hiện trường nhưng không thu giữ được tang vật là viên gạch mà E, Bắc dùng để ném T và Nam.

Quá trình điều tra đã xác định chiếc xe máy hiệu Honda Dream BKS: 30N9- 0096 thuộc sở hữu của anh Nguyễn Mạnh T. Ngày 18/10/2020, Cơ quan CSĐT- Công an huyện K đã trao trả chiếc xe máy cho anh T. Do chỉ bị xây xước nhẹ, anh T không đi khám thương. Anh T không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Phạm Quốc E.

Đối với Nguyễn Văn Bắc và Đặng Văn Tý (tức Đồng) mặc dù có hành vi cầm gạch đuổi ném anh T và Nam; nhưng không bàn bạc, không tham gia cùng E chiếm đoạt xe máy của anh T nên không đồng phạm với E. Ngày 16/11/2020, Công an huyện K đã xử phạt hành chính đối với Bắc và Tý về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác là đúng quy định của pháp luật.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Phạm Quốc E đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo E khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Cáo trạng số 197/CT-VKSGL ngày 24/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K– TP Hà Nội truy tố bị cáo Phạm Quốc E về tội: Cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo, qua tranh luận tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Phạm Quốc E đã đủ yếu tố cấu thành tội: Cướp tài sản theo điểm d khoản 2 Điều 168 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 168; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Quốc E mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù .Thời hạn tù được tính từ ngày 12/8/2020.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng

Về dân sự: Anh T không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên đề nghị không xét

Về xử lý vật chứng: Không Nói lời sau cùng bị cáo E nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện theo trình tự thủ tục tố tụng của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng, do đó các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về tội danh và tình tiết định khung hình phạt:

Xét lời khai nhận của bị cáo Phạm Quốc E tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, lời khai người làm chứng, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/8/2020 tại khu vực đường Hà Huy Tập, thị trấn R, K, Hà Nội do có lời qua Tg lại với nhau khi điều khiển xe máy trên đường, bị cáo Phạm Quốc E cùng Nguyễn Văn Bắc và Đặng Văn Tý (tức Đồng) đã có hành vi dùng gạch ném anh Nguyễn Mạnh T và Đỗ Ngọc Nam. Do sợ bị đánh tiếp nên anh T và Nam đã vứt lại chiếc xe máy hiệu Honda Dream BKS: 30N9-0096 để bỏ chạy. Bắc và Tý tiếp tục điều khiển xe máy của mình đi về, còn E quay lại thấy chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện nên đã chiếm đoạt xe máy hiệu Honda Dream BKS: 30N9-0096 trị giá 7.500.000 đồng của anh Nguyễn Mạnh T.

Hành vi của bị cáo Phạm Quốc E đã cấu thành tội: Cướp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d khoản 2 điều 168 của Bộ luật hình sự năm 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội: “ Cướp tài sản ” theo điểm d khoản 2 điều 168 của Bộ luật hình sự 2015 là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được Bộ luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang trong quần E nhân dân. Vì vậy, cần phải có mức án phù hợp với tính chất mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra.

[3] Về hình phạt và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo :

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân bị cáo E chưa có tiền án tiền sự, khi thực hiện hành vi phạm tội là do suy nghĩ nông cạn, bột phát và một phần do bị kích động về tinh thần do hành vi của bị hại gây ra, tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị không lớn và người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặt khác tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, bị cáo đầu thú nên bị cáo E được hưởng tình các tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s, h, e Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015.

Như vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng cho bị cáo E được một hình phạt tù dưới mức thấp nhất khung hình phạt mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo để cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm, phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng TNHS của bị cáo: Không Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của HĐXX.

[4] Hình phạt bổ sung:

Do bị cáo không tài sản và thu nhập nên không áp dụng.

Đại diện VKS đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của HĐXX.

[5] Về dân sự:

Bị hại là anh Nguyễn Mạnh T không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên Tòa không xét Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về dân sự phù hợp với nhận định của HĐXX.

[6] Về xử lý vật chứng: Không Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về xử lý vật chứng phù hợp với nhận định của HĐXX [7] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST Bị cáo và những người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm d khoản 2 điều 168, điểm e,h,s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.

- Xử phạt Bị cáo Phạm Quốc E 05(Năm) năm tù về tội ‘‘Cướp tài sản’’.

Thời hạn tù được tính từ ngày 12/8/2020.

2.Về hình phạt bổ sung : Không áp dụng đối với bị cáo.

3. Về dân sự : Bị hại là anh Nguyễn Mạnh T không có yêu cầu bồi thường gì về dân sự nên Tòa không xét

4.Về xử lý vật chứng: Không

5. Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm

6. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 206/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 về tội cướp tài sản

Số hiệu:206/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về