TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 206/2017/HSST NGÀY 26/12/2017 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN VÀ LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Ngày 26/12/2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 213/2017/HSST ngày 01/12/2017 đối với bị cáo:
Ngô Dũng T; sinh ngày 19/11/1984, tại C - Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 150A đường P, phường Đ, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Chỗ ở hiện nay: Số 61/521 đường C, phường C, quận B, thành phố Hà Nội; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; con ông Ngô Văn V và bà Nguyễn Thị M; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có, Danh chỉ bản số 306 ngày 11/8/2017 tại Công an thành phố Lạng Sơn; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/9/2017 cho đến nay; có mặt.
- Người bị hại: Nguyễn Đình V, sinh ngày 18/7/1988; trú tại: Số 07/17A đường B, phường Đ, thành phố L; vắng mặt.
NHẬN THẤY
Bị cáo Ngô Dũng T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Do không có nghề nghiệp cho nên vào cuối năm 2013, Ngô Dũng T từ nhà xuống H để làm ăn. Khoảng cuối tháng 4/2015, khi đang ngồi tại một quán internet thuộc quận T để xem các thông tin xã hội, Ngô Dũng T truy cập vào trang Web của Chi cục thuế thành phố H, thấy có danh sách thi tuyển, điểm thi và các thông tin của người dự tuyển thi tuyển công chức vào Cục thuế thành phố H năm 2014, trong đó có Nguyễn Đình V, sinh năm 1988, trú tại số 07/17A đường B, phường Đ, thành phố L đạt điểm số không cao. Nhận thấy với số điểm này anh V sẽ không trúng tuyển, nên Ngô Dũng T nảy sinh ý định lừa xin việc cho anh V vào biên chế của Cục thuế thành phố H để chiếm đoạt tiền của V. Ngô Dũng T liên lạc điện thoại với anh V qua số điện thoại có trong danh sách thi tuyển và trao đổi với anh Vũ là Ngô Dũng T có khả năng lo được phúc khảo, nếu anh V xin phúc khảo thì Ngô Dũng T sẽ lo cho rồi hẹn gặp nhau để nói chuyện, được anh V đồng ý. Một tuần sau, Ngô Dũng T và anh V gặp nhau, sau quá trình nói chuyện Ngô Dũng T biết anh V có một môn tiếng Anh không đủ điều kiện và V có nguyện vọng xin vào làm việc tại Chi cục thuế quận T, thành phố H thì Ngô Dũng T đưa ra thông tin có quen biết một số lãnh đạo trong ngành thuế và sẽ xin được cho anh V vào biên chế làm việc tại Chi cục thuế quận T với điều kiện anh V phải đưa cho Ngô Dũng T 300.000.000 (ba trăm triệu đồng) đặt trước 100.000.000 (một trăm triệu đồng) khi nào có quyết định đi làm sẽ đưa nốt 200.000.000 (hai trăm triệu đồng) anh V đồng ý và hẹn ngày 19/6/2015 thì giao tiền và yêu cầu khi giao tiền Ngô Dũng T phải đưa cho anh V bản công chứng sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân của Ngô Dũng T.
Ngày 19/6/2015, tại quán "C" số 350 đường B, phường Đ, thành phố L, Ngô Dũng T và anh Nguyễn Đình V gặp nhau như đã hẹn, trước khi nhận 100.000.000 (một trăm triệu đồng) của anh V, Ngô Dũng T đã viết một giấy biên nhận số tiền kèm theo cam kết sẽ xin được việc cho anh V vào Chi cục thuế quận T và hẹn đến ngày 25/7/2015 thì hoàn thành nếu không hoàn thành sẽ trả lại số tiền anh V đã đưa. Đồng thời giao cho anh V bản photo chứng minh nhân dân và sổ hộ khẩu gia đình để làm tin. Tuy nhiên sau khi nhận tiền Ngô Dũng T đã chi tiêu hết số tiền nêu trên. Ngày 25/7/2015, do không có quyết định đi làm như đã hẹn, anh V đã nhiều lần điện thoại cho Ngô Dũng T thì T vẫn nói là chưa xong và yêu cầu anh V đưa thêm 100.000.000 (một trăm triệu đồng). Để tạo cho anh V tin tưởng Ngô Dũng T vào một quán Internet tại H sử dụng máy tính kết nối Internet truy cập vào trang Web của Chi cục thuế thành phố H tải danh sách trúng tuyển công chức vào Cục thuế H năm 2014 có hình dấu tròn màu đen có nội dung "BỘ TÀI CHÍNH" về máy. Ngô Dũng T chỉnh sửa thêm tên của anh V trong danh sách và chỉnh tiêu đề thành "Danh sách công nhận thí sinh trúng tuyển kỳ thi tuyển dụng công chức tổng cục thuế đợt 1 năm 2015 (sau phúc khảo) vào Cục thuế thành phố H" rồi nhờ một nam thanh niên là nhân viên của quán (không biết tên, địa chỉ) dùng máy in màu của quán in ra danh sách có đóng dấu treo hình dấu đỏ có nội dung "BỘ TÀI CHÍNH" đến ngày 06/9/2015, Ngô Dũng T gặp anh V đã đưa cho anh V tờ danh sách mình vừa làm giả, anh V tin tưởng nên đã giao tiếp cho Ngô Dũng T 100.000.000 (một trăm triệu đồng). Ngô Dũng T cũng viết giấy biên nhận đã nhận số tiền nêu trên và hạn cuối cùng đến ngày 25/10/2015 sẽ nhận quyết định đi làm, nếu không thực hiện được sẽ trả lại số tiền đã nhận.
Tại bản kết luận giám định số 11/KLGĐ- PC54 ngày 12/11/2017 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Hình dấu tròn đỏ có nội dung "BỘ TÀI CHÍNH" trên tài liệu cần giám định với hình dấu tròn đỏ có cùng nội dung trên tài liệu mẫu so sánh là không phải cùng một con dấu đóng ra.
Tại bản Cáo trạng số 217/KSĐT ngày 30/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, truy tố Ngô Dũng T về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 139 và tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức theo quy định tại khoản 1 Điều 267 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Ngô Dũng T phạm tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" và tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức". Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 139, khoản 1 Điều 267, các điểm b, p; s khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47, Điều 33, Điều 50 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 năm tù đến 06 năm tù về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản'' và từ 06 tháng tù đến 09 tháng tù về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai tội từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng đến 06 (sáu) năm 09 (chín) tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo chưa có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định và không có tài sản. Việc bồi thường dân sự: Xác nhận bị cáo và gia đình bị cáo đã bồi thường cho người bị hại đầy đủ.
Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận đúng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố. Trong lời nói sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bị hại, bị cáo,
Bản án 206/2017/HSST ngày 26/12/2017 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức
Số hiệu: | 206/2017/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2017 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về