Bản án 206/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 206/2017/HSPT NGÀY 26/09/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26/9/2017 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên toà công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 175/2017/HSPT ngày 13/9/2017 đối với bị cáo Cao Văn L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 81/2017/HSST ngày 12/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo: Cao Văn L (L heo), sinh năm 1964; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Tổ 14 phường H, quận T, thành phố Đà Nẵng; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Không; Con ông Cao T (c) và bà Trần Thị P; có vợ là Võ Thị Kim Y và 03 con, (con lớn nhất sinh năm 1982, con nhỏ nhất sinh năm 1994);

Tiền án: Ngày 29/9/2014 bị Tòa án nhân dân quận Thanh khê, thành phố Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản";

Tiền sự: Ngày 19/8/2016 bị Ủy ban nhân dân phường Hòa Khê, quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phương, thị trấn với thời hạn 12 tháng;

Nhân thân: Từ năm 1983 đến năm 2010 đã 09 lần bị xét xử và bị xử lý hành chính về các hành vi chiếm đoạt tài sản và gây rối trật tự công cộng;

Bị cáo bị bắt ngày 13/5/2017. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân quận Thanh Khê và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 13/5/2017, Cao Văn L đi bộ trên đường Nguyễn Sinh S, thành phố Đà Nẵng thì gặp Minh và Hải (không rõ nhân thân lai lịch) rủ L đi trộm cắp tài sản nên L đồng ý. Đến 19 giờ cùng ngày, Minh điều khiển xe mô tô BKS 43H6-6863 chở L và Hải đến ngôi nhà đang xây dựng của ông Nguyễn Văn T tại số 17 đường Mẹ H, phường T, quận Tk, thành phố Đà Nẵng. Lúc này trước hiên nhà có để một khoanh sắt cuộn tròn loại phi 6 nặng 100 kg không có người trông coi. L đứng ngoài cảnh giới, còn Minh và Hải đi vào trong khiêng khoanh sắt, vừa bỏ lên xe mô tô thì bị lực lượng tuần tra công an phường Thanh Khê Tây bắt quả tang Cao Văn L, còn Minh và Hải tẩu thoát được. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 1.150.000 đồng

Tại Bản án sơ thẩm số 81/2017/HSST ngày 12/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g, p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Cao Văn L 12 (mười hai) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 13/5/2017.

Ngoài ra, Bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo bản án.

Ngày 17/8/2017, bị cáo Cao Văn L có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo Cao Văn L có đầy đủ nội dung theo thủ tục kháng cáo và nằm trong thời hạn kháng cáo nên đảm bảo hợp lệ, cần được xem xét. Bị cáo L đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng vào ngày 15/5/2017 bị cáo tiếp tục cùng đồng bọn trộm cắp cuộn sắt loại 6 phi nặng 100kg trị giá 1.150.000 đồng của ông Nguyễn Văn T nên Bản án sơ thẩm số 81/2017/HSST ngày 12/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội. Bản án sơ thẩm cũng đã xem xét vai trò, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo đồng thời đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng, xử phạt bị cáo Cao Văn L 12 tháng tù là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo Cao Văn L cũng thừa nhận Bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là đúng và bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét kháng cáo của bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo,

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Lời khai của bị cáo Cao Văn L trong quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó HĐXX có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 19 giờ ngày 13/5/2017, tại nhà số 17 đường Mẹ H, phường T, quận Tk, thành phố Đà Nẵng, Cao Văn L cùng đồng bọn có hành vi lén lút trộm cắp một khoanh sắt cuộn tròn loại 6 phi nặng 100kg trị giá 1.150.000 đồng của ông Nguyễn Văn T. Bản thân bị cáo đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, Bản án sơ thẩm số 81/2017/HSST ngày 12/8/2017 của Tòa án nhân dân quận Thanh Khê đã xét xử bị cáo Cao Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng tội.

Xét kháng cáo của bị cáo Cao Văn L: Hội đồng xét xử xét thấy hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt trị giá dưới 2.000.000đ nhưng nhân thân bị cáo xấu, ngày 29/9/2014 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân quận Thanh Khê xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích. Ngoài ra, trước năm 2014 bị cáo cũng đã nhiều lần bị xử phạt tù về các tội “Trộm cắp tài sản”, “Cướp giật tài sản”, “Cưỡng đoạt tài sản”, “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Gây rối trật tự công cộng”.

Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, đồng thời áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp. Các quyết định của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Do đó, căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 248 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Văn L, giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Áp dụng Khoản 1 Điều 138; Điểm g, p Khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Cao Văn L 12 (mười hai) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 13/5/2017.

2. Về án phí: Áp dụng Điểm b Khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Cao Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 206/2017/HSPT ngày 26/09/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:206/2017/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về