Bản án 205/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 205/2019/HS-ST NGÀY 26/08/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 26/8/2019 tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đưa ra xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 199/2019/TLST-HS, ngày 23/7/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 204/2019/QĐXXST-HS ngày 12/8/2019 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Hồng T, sinh năm 1987; HKTT: Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vỵ Xuyên, tỉnh Hà Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Phúc Hạnh, sinh năm 1957 và bà Hoàng Thị Sồi, sinh năm 1957; Có vợ: Nguyễn Thị Ngân, sinh năm 1992 và có 01 con: Sinh năm 2018.

Tiền sự: Không;

Tiền án: Có 01 tiền án. Tại bản án số 04/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện KonpLông, tỉnh Kon Tum xử phạt 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/4/2019 đến ngày 13/6/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn là Bảo lĩnh; Có mặt.

2. Nguyễn Văn H, sinh năm 1989; HKTT: Thôn Giã Cầu, xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Hồng Phúc, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị Hiền, sinh năm 1964; Có vợ: Nguyễn Thị Dung, sinh năm 1991 và có 02 con: Con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016;

Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20/4/2019 đến ngày 23/4/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20/4/2019, Nguyễn Hồng T, sinh năm 1987, có hộ khẩu thường trú tại Làng Nùng, xã Đạo Đức, huyện Vỵ Xuyên, tỉnh Hà Giang và Nguyễn Văn H, sinh năm 1989, có hộ khẩu thường trú tại thôn Giã Cầu, xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên đã đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh đầu thú khai nhận về hành vi phạm tội của bản thân như sau:

Nguyễn Hồng T và Nguyễn Văn H có mối quan hệ là anh em họ với nhau. Giữa T và H có thỏa thuận là khi T đánh bạc với H dưới hình thức mua bán số lô thì T chỉ cần dùng điện thoại nhắn tin số lô muốn mua cho H và H nhắn tin xác nhận lại với T. H và T đã thỏa thuận về cách thức chơi bạc dưới hình thức mua bán số lô như sau: Lấy kết quả xổ số kiến thiết miền Bắc mở thưởng vào hồi 18h15’ đến 18h30’ hàng ngày làm căn cứ so sánh; Cách tính được thua khi mua số “lô” là so sánh hai số cuối ở hàng chục và hàng đơn vị tất cả các giải thưởng, nếu trùng với số người chơi mua thì H phải trả cho T là 01 điểm = 80.000đ, trường hợp trúng nhiều thì số tiền H phải trả cho T theo số đã trúng, nếu không trúng thì T phải trả cho H 01 điểm = 23.000đ. Đến khoảng 17h05’ ngày 18/4/2019, Nguyễn Hồng T điều khiển xe ô tô BKS 23C-049.25 đi từ T Nguyên về thành phố Bắc Ninh, đi trên QL18 hướng Nội Bài đi Bắc Ninh, khi đến địa phận khu Xuân Ổ B, phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh T điều khiển xe ô tô đi chậm và lấy điện thoại di động có số 0357514567 nhắn tin đến số điện thoại 0969650589 của Nguyễn Văn H, với nội dung “Lô 19, 34, 69, mỗi con 500 điểm”, H đồng ý và nhắn lại cho T là “ok”. Sau khi có kết quả mở thưởng của xổ số Miền Bắc ngày 18/4/2019, T trúng 01 cặp số là số 19 và được số tiền là 40.000.000đ, giữa T và H chưa thanh toán tiền được thua với nhau. Như vậy, tổng số tiền T và H dùng vào việc đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô là 74.500.000đ.

Ngày 20/4/2019, T tự nguyện giao nộp số tiền đánh bạc là 34.500.000đ và 01 điện thoại iphone 8 màu trắng, T sử dụng để đánh bạc; H tự nguyện giao nộp số tiền đánh bạc là 40.000.000đ và 01 điện thoại di động Nokia đen trắng loại có bàn phím bấm dùng để đánh bạc.

Với nội dung trên, bản Cáo trạng số: 157/CT-VKS-TPBN ngày 23 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” theo Điểm b, Khoản 2, Điều 321 Bộ luật hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà các bị cáo đã khai nhận: Khoảng 17h05’ ngày 18/4/2019, Nguyễn Hồng T điều khiển xe ô tô BKS 23C-049.25 đi từ T Nguyên về thành phố Bắc Ninh, đi trên QL18 hướng Nội Bài đi Bắc Ninh, khi đến địa phận khu Xuân Ổ B, phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh T điều khiển xe ô tô đi chậm và lấy điện thoại di động có số 0357514567 nhắn tin đến số điện thoại 0969650589 của Nguyễn Văn H, với nội dung “Lô 19, 34, 69, mỗi con 500 điểm”, H đồng ý và nhắn lại cho T là “ok”. Sau khi có kết quả mở thưởng của xổ số Miền Bắc ngày 18/4/2019, T trúng 01 cặp số là số 19 và được số tiền là 40.000.000đ, giữa T và H chưa thanh toán tiền được thua với nhau. Như vậy, tổng số tiền T và H dùng vào việc đánh bạc dưới hình thức mua bán số lô là 74.500.000đ.

Ngày 20/4/2019, hai bị cáo ra đầu thú, T tự nguyện giao nộp số tiền đánh bạc là 34.500.000đ và 01 điện thoại iphone 8 màu trắng, T sử dụng để đánh bạc; H tự nguyện giao nộp số tiền đánh bạc là 40.000.000đ và 01 điện thoại di động Nokia đen trắng loại có bàn phím bấm dùng để đánh bạc.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh thực hành quyền công tố, sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội “Đánh bạc” và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng Điểm b, Khoản 2, Khoản 3, Điều 321; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS. Xử phạt Nguyễn Văn H 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng. Phạt bổ sung từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

- Áp dụng Điểm b, Khoản 2, Khoản 3, Điều 321; Điểm s, Khoản 1, 2, Điều 51; Điểm h, Khoản 1, Điều 52; Điều 38 BLHS; xử phạt bị cáo T từ 38 đến 42 tháng tù. Áp dụng Khoản 5, Điều 65 BLHS buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt 24 tháng tù của bản án số 04/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện Konplông, tỉnh Kon Tum. Phạt bổ sung từ 10.000.000đ đến 15.000.000đ sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng của vụ án:

Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu xung quỹ Nhà nước Số tiền 74.500.000 đồng; 01 điện thoại di động Iphone 8 màu trắng; 01 điện thoại Nokia đen trắng loại có bàn phím bấm.

Các Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng truy tố là đúng. Các Bị cáo không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cùng tang vật thu giữ, do vậy Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 17h05’ ngày 18/4/2019, tại khu Xuân Ổ B, phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Hồng T và Nguyễn Văn H có hành vi đánh bạc ăn tiền dưới hình thức mua bán số lô với tổng số tiền dùng vào việc đánh bạc là 74.500.000đ. Với hành vi phạm tội như trên các bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố về tội “Đánh bạc” theo Điểm b, Khoản 2, Điều 321 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an, đồng thời là nguyên nhân dẫn các gia đình vào cảnh túng quẫn, mâu thuẫn vợ chồng. Mặt khác nó còn là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác, gây dư luận bất bình trong quần chúng nhân dân. Xét thấy cần phải xử lý nghiêm các bị cáo bằng luật hình sự nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án thấy: T là người mua số lô còn H là người bán số lô cho T. Hành vi phạm tội của các bị cáo do một mình thực hiện nên không có tính chất đồng phạm.

Xét về nhân thân của các bị cáo trong vụ án thấy:

Sau khi phạm tội, các bị cáo đã đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Bắc Ninh để đầu thú về hành vi phạm tội và quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đều đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thể hiện trước khi xét xử cả hai bị cáo đã tự giác nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Đối với bị cáo T có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là: Tại bản án số 04/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện KonpLông tỉnh Kon Tum bị cáo T bị tuyên phạt 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính đến ngày bị cáo T phạm tội là ngày 18/4/2019, bị cáo chưa hết thời gian thử thách nên lần phạm tội này của bị can T là tái phạm, do đó bị cáo T bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1 Điều 52 BLHS và phải tổng hợp với bản án số 04 nói trên theo quy định tại Điều 56 và Điều 65 BLHS.

Các bị cáo đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên HĐXX thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với các bị cáo khi lượng hình để các bị cáo nhận thấy được chính sách khoan hồng và nhân đạo của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cũng như vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của các bị cáo; đối chiếu với các quy định pháp luật và xét đề nghị của đại điện VKS thành phố Bắc Ninh là có căn cứ Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hình phạt: Đối với bị cáo Nguyễn Văn H chưa cần thiết bắt bị cáo cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật là cải tạo tại địa phương, nơi các bị cáo cư trú cũng đủ để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội sau này.

Đối với bị cáo Nguyễn Hồng T, lần phạm tội này tái phạm, do đó bị cáo T bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm quy định tại Điểm h, Khoản 1, Điều 52 BLHS và phải tổng hợp với bản án số 04 nói trên theo quy định tại Điều 56 và Điều 65 BLHS. Xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt sau này Về hình phạt bổ sung: Hành vi của các bị cáo đánh bạc với mục đích muốn kiếm tiền một cách nhanh chóng, bất chính. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự cần phạt bổ sung các bị cáo một khoản tiền để sung quỹ Nhà nước.

Về vật chứng của vụ án: Tịch thu sung quỹ Nhà nước Số tiền 74.500.000 đồng; 01 điện thoại di động Iphone 8 màu trắng; 01 điện thoại Nokia đen trắng loại có bàn phím bấm.

Các bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hồng T, Nguyễn Văn H phạm tội “Đánh bạc”.

Áp dụng Điểm b, Khoản 2, Điều 321; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điểm h, Khoản 1, Điều 52; Điều 56; Khoản 5, Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Nguyễn Hồng T 38 (ba mươi tám) tháng tù về tội đánh bạc. Tổng hợp với hình phạt của bản án số 04/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện KonpLông, tỉnh Kon Tum xử phạt Nguyễn Hồng T 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng tính từ ngày tuyên án (26/5/2015). Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 62 (sáu mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/6/2014 đến ngày 16/01/2015 (của bản án số 04/2015/HSST ngày 26/5/2015 của Tòa án nhân dân huyện KonpLông, tỉnh Kon Tum) và từ ngày 20/4/2019 đến ngày 13/6/2019.

Áp dụng Điểm b, Khoản 2, Điều 321; Điểm s, Khoản 1, Khoản 2, Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Nguyễn Văn H 36 (ba mươi sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm;

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân xã Tân Việt, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng Khoản 3, Điều 321 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt các bị cáo Nguyễn Hồng T, Nguyễn Văn H mỗi bị cáo 10.000.000 (mười triệu) đồng sung quỹ Nhà nước. Xác nhận các bị cáo đã nộp 10.200.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh.

Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Tịch thu xung quỹ Nhà nước Số tiền 74.500.000 đồng; 01 điện thoại di động Iphone 8 màu trắng; 01 điện thoại Nokia đen trắng loại có bàn phím bấm.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 205/2019/HS-ST ngày 26/08/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:205/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về