Bản án 205/2017/HSST ngày 07/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 205/2017/HSST NGÀY 07/12/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 07 tháng 12 năm 2017 tại Bia tưởng niệm xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 208/2017/HSST ngày 31 tháng 10 năm 2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Trường H

Giới tính: Nam; sinh năm 1983 tại Trà Vinh; Nơi ĐKHKTT: Ấp T, xã H, huyện C, tỉnh Trà Vinh; Chỗ ở: Nhà không số (kế nhà số A7/10) ấp 1A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Con ông (không rõ) và bà Thạch Thị Thu N; Bị cáo có vợ tên Huỳnh Thị Ngọc P và 02 người con, sinh năm 2005 và 2015;

Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Nhân thân:

+ Ngày 24/7/2006 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 973/2006/ HSST; chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 30/8/2010 theo Giấy chứng nH đặc xá số 198/ GCNĐX của Giám thị trại giam Thủ Đức; thi hành xong phần án phí theo giấy xác nH số 530/GXN- CCTHA ngày 13/9/2017 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.

Ngày 16/01/2015, sử dụng trái phép chất ma túy và đánh bạc trái phép, bị Công an phường An Lạc A, quận Bình Tân xử phạt vi phạm hành chính với tổng tiền phạt là 2.250.000 đồng theo Quyết định số 670 và 672/ QĐ-XPHC ngày 23/01/2015. Nguyễn Trường H đã nộp phạt từ ngày 22/4/2015 theo biên lai thu số 3729, 3731 của Kho bạc nhà nước Bình Tân.

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 20/7/2017 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:1. Ông Nguyễn Trung N, sinh năm 1987 – (vắng mặt).

Nơi cư trú: Ấp X, xã B, huyện T, tỉnh Cà Mau.

2. Bà Phùng Thị H1, sinh năm 1979 – (vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ 3, ấp T, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Nai.

Người làm chứng: Ông Dương Văn B, sinh năm: 1984 – (vắng mặt).

Nơi cư trú: A6/29 tổ 3, ấp 1A, xã V, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Trường H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 10 giờ 15 phút ngày 20/7/2017, Công an xã Vĩnh Lộc B tiến hành kiểm tra hành chính nhà không số (kế số A7/10) tổ 2, ấp 1A, xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh của bà Huỳnh Thị D (bà D ở cùng con gái là Huỳnh Thị Ngọc P, chồng P là Nguyễn Trường H). Tại thời điểm kiểm tra, có mặt H và bạn H là Nguyễn Trung N đang ngủ trên gác (phòng ngủ của vợ chồng H). Qua kiểm tra, lực lượng công an xã phát hiện, thu giữ trong phòng ngủ của vợ chồng H 01 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong 01 hộp giấy màu đen, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong 01 hộp kim loại hình chữ nhật, 01 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong 01 hộp kim loại hình chữ nhật màu đỏ mà H khai nhận là ma túy tổng hợp, dùng để sử dụng cho bản thân và 03 gói nylon chứa tinh thể không màu để trong 01 hộp kim loại hình tròn mà Năng khai nhận là ma túy tổng hợp, dùng để bán cho người nghiện nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng, lập hồ sơ ban đầu rồi chuyển đến Công an huyện Bình Chánh xử lý. Qua test ma túy cho thấy, H và N đều có sử dụng trái phép chất ma túy (BL122, 125, 126, 163, 195, 200, 201, 212).

Tại kết luận giám định số 1275/ KLGĐ-H ngày 7/ 8/ 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Trường H và hình dấu

Công an xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh gửi đến giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9170g, loại Methamphetamine (BL75).

Tại kết luận giám định số 1276/ KLGĐ-H ngày 7/ 8/ 2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận tinh thể không màu trong 03 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Trung N và hình dấu Công an xã Vĩnh Lộc B, huyện Bình Chánh gửi đến giám địnhlà ma túy ở thể rắn, có khối lượng 6,1845g, loại Methamphetamine (BL119).

Ngay sau khi được chuyển về Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Trường H và Nguyễn Trung N đều thay đổi lời khai, cả hai khai nhận thời điểm xảy ra vụ việc thì N đến nhà H chơi, được H cho sử dụng chung ma túy 02 lần (không lấy tiền). Lúc bị phát hiện quả tang, do có ân nghĩa với H từ trước (H giúp tìm việc làm, cho sử dụng ma túy chung không lấy tiền) nên N nhận dùm H, toàn bộ số ma túy mà lực lượng công an xã thu giữ được nêu trên là của H và dùng để sử dụng cho bản thân, N không biết và không liên quan. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện đã tiến hành cho N và H đối chất, thực nghiệm điều tra (có ghi âm, ghi hình) và cả hai đều xác định 06 gói nylon chứa ma túy để trong 04 cái hộp bị thu giữ là của H, dùng để sử dụng cho bản thân, vị trí thu giữ số ma túy nói trên là trên tấm nệm trong phòng ngủ của vợ chồng H (BL154, 247, 249, 250).Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Trường H khai nhận bản thân nghiện ma túy từ năm 2005 sau đó cai nghiện, đến cuối năm 2015 thì bị tái nghiện ma túy đá và đã mua ma túy của nhiều người (chưa rõ lai lịch) để sử dụng cho bản thân; Số ma túy bị thu giữ trong 03 hộp kim loại là do H mua của Thoa (chưa rõ lai lịch) trước đó khoảng 3 – 4 ngày tại khu vực cầu Nhị Thiên Đường, quận 8 với giá 3.000.000 đồng để sử dụng dần. Khoảng 16 giờ ngày 19/7/2017, N đến nhà H chơi, sau khi đi cầm dùm H sợi dây chuyền vàng tại tiệm vàng Kim Hoàn Mỹ II ở số 327D Lê Văn Quới, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân được 4.000.000 đồng đưa cho P đi trả nợ, H và N cùng lên phòng ngủ của vợ chồng H. Lúc này H lấy một ít ma túy đá đựng trong hộp sắt tròn, bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và cùng với N sử dụng chung rồi cả hai nằm chơi game trên điện thoại. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, H đón xe ôm đến trước nhà số 531 đường Lê Văn Quới, phường Bình Trị Đông A, quận Bình Tân và mua của Hùng (chưa rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá giá 5.000.000 đồng rồi quay về nhà. Tại đây, H tiếp tục lấy một ít ma túy trong gói ma túy mới mua, bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá và cùng với N sử dụng chung. Sau đó H bỏ số ma túy còn lại vào hộp giấy đen rồi đi ngủ, N cũng nằm ngủ gần đó đến khoảng 10 giờ sáng ngày 20/ 7/ 2017 thì bị lực lượng Công an xã Vĩnh Lộc B kiểm tra, phát hiện, bắt giữ như trên (BL181, 185, 189).

Vật chứng vụ án:

+03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9170g, loại Methamphetamine; Đã được niêm phong, bên ngoài có ghi số 1276/ 017 và chữ ký ghi tên Nguyễn Trung N.

+03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, qua giám định là là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 6,1845g, loại Methamphetamine; Đã được niêm phong, bên ngoài có ghi số 1275/2017 và chữ ký ghi tên Nguyễn Trường H.

+ 01 hộp giấy màu đen, 01 hộp bằng kim loại, 01 hộp bằng kim loại màu đỏ, 01 hộp tròn bằng kim loại, 01 cân điện tử hiệu Amput, 01 cái nhíp bằng kim loại, 02 cây kéo, 30 túi nylon 02x02cm, 01 hộp quẹt màu vàng đỏ, 01 ống nhựa cắt nhọn 01 đầu, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng; Số vật chứng này thu giữ của H, là công cụ phương tiện để H liên lạc mua ma túy, kiểm tra trọng lượng ma túy đã mua, chia nhỏ số ma túy đã mua để sử dụng dần.

+ 01 điện thoại di động màu đen hiệu Mobiistar, thu của N.

+ 01 xe mô tô biển số 60N5-4758. Quá trình điều tra cho thấy xe mô tô này do Phùng Thị H1 đăng ký sở hữu. Bà H1 đã bán lại xe cho người chưa rõ lai lịch từ năm2010 (không làm giấy tờ mua bán). Bị cáo H khai xe này của Nguyễn Trung N bỏ tại nhà bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả (BL92, 94, 149, 151).

Tại bản Cáo trạng số 197/CTr-VKS ngày 27 tháng 10 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Trường H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Trường H khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình giống như toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu luận tội và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009: Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường H từ 03 đến 04 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử lý vật chứng theo luật định là có căn cứ pháp luật.

Xét hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý và sử dụng chất ma túy của Nhà nước, ngoài ra còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội và các loại tội phạm khác. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của mình nhưng vì muốn thỏa mãn cơn nghiện ma túy của mình nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Số ma túy thu giữ của  bị cáo,  qua giám định  có khối lượng tổng cộng có là  11,1015g, loại Methamphetamine

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Trường H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 24/7/2006 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 973/2006/HSST; Chấp hành xong hình phạt tù từ ngày 30/8/2010. Ngày 16/01/2015, sử dụng trái phép chất ma túy và đánh bạc trái phép, bị Công an phường AnLạc A, quận Bình Tân xử phạt vi phạm hành chính với tổng tiền phạt là 2.250.000 đồng theo Quyết định số 670 và 672/ QĐ-XPHC ngày 23/01/2015. Từ đó có thể thấy bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật, thường xuyên vi phạm pháp luật nên cần áp dụng hình phạt nghiêm, buộc bị cáo phải chấp hành phạt tù trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 quy định hình phạt nhẹ hơn quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 nên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với Hùng, Thoa là những người đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo H, hiện chưa rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh không có cơ sở để xử lý; đối với Huỳnh Thị D, Huỳnh Thị Ngọc P do không biết, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo H nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Bình Chánh không xử lý; đối với Nguyễn Trung N, sau khi được trả tự do, N đã bỏ đi khỏi nơi cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh chưa làm việc được, khi nào làm việc được sẽ điều tra xử lý sau là có căn cứ.

Về vật chứng vụ án:

03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, qua giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 4,9170g, loại Methamphetamine (đã được niêm phong, bên ngoài có ghi số 1276/ 2017 và chữ ký ghi tên Nguyễn Trung N); 03 gói nylon hàn kín chứa tinh thể không màu, qua giám định là là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 6,1845g, loại Methamphetamine (đã được niêm phong, bên ngoài có ghi số 1275/ 2017 và chữ ký ghi tên Nguyễn Trường H); 01 hộp giấy màu đen; 01 hộp bằng kim loại; 01 hộp bằng kim loại màu đỏ; 01 hộp tròn bằng kim loại; 01 cân điện tử hiệu Amput; 01 cái nhíp bằng kim loại; 02 cây kéo; 30 túi nylon 02x02cm; 01 hộp quẹt màu vàng đỏ; 01 ống nhựa cắt nhọn 01 đầu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Xét đây là vật liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng thu giữ của bị cáo H và 01 xe mô tô biển số 60N5-4758 (quá trình điều tra cho thấy xe mô tô này do bà Phùng Thị H1 đăng ký sở hữu. Bà H đã bán lại xe cho người chưa rõ lai lịch từ năm 2010 không làm giấy tờ mua bán. Bị cáo H khai xe này của Nguyễn Trung N bỏ tại nhà bị cáo. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả) là phương tiện bị cáo liên lạc, đi lại để mua ma túy, nên cần tịch thu và sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động màu đen hiệu Mobiistar, thu của Nguyễn Trung N. Xét không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên giao trả lại cho Nguyễn Trung N điện thoại trên.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trường H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; khoản 3 Điều 7; khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Trường H 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20/7/2017.

- Áp dụng điểm a, b, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong, bên ngoài có ghi số 1276/2017 có chữ ký ghi tên Nguyễn Trung N) và 01 (một) gói niêm phong, bên ngoài có ghi số 1275/2017 có chữ ký ghi tên Nguyễn Trường H; 01 (một) hộp giấy màu đen; 01 (một) hộp bằng kim loại; 01 hộp bằng kim loại màu đỏ; 01 (một) hộp tròn bằng kim loại; 01 (một) cân điện tử hiệu Amput; 01 (một) cái nhíp bằng kim loại; 02 (hai) cây kéo; 30 (ba mươi) túi nylon 02x02cm; 01 (một) hộp quẹt màu vàng đỏ; 01 (một) ống nhựa cắt nhọn 01 (một) đầu; 01(một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

+ Tịch thu và sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo màu trắng và 01 (một) xe mô tô biển số 60N5-4758.

- Giao trả lại cho ông Nguyễn Trung N 01 (một) điện thoại di động màu đen hiệu Mobiistar.

(hiện các vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao nH vật chứng ngày 27/10/2017 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)

Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, tính kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 205/2017/HSST ngày 07/12/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:205/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:07/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về