Bản án 204/2020/HSPT ngày 19/08/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 204/2020/HSPT NGÀY 19/08/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 8 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 159/2020/TLPT-HS ngày 23 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo Phan Thị T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, do có kháng cáo của bị cáo và người bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2020/HSST ngày 14/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

Họ và tên: Phan Thị T; sinh năm: 1978 tại tỉnh: Hà Tĩnh; nơi cư trú: Thôn V, xã X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; trình độ học vấn: 06/12; nghề nghiệp: Làm nông; con ông Phan Trọng B (đã chết) và bà Hoàng Thị Q, sinh năm 1951; bị cáo có chồng là Ông Thế H, sinh năm 1979 và 04 con, con lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2013 Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/7/2019 đến nay, hiện đang tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

+ Người bào chữa cho bị cáo:

1. Ông Nguyễn Tiến C – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ: Đường NTT, thành phố BM, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

2. Ông Hoàng Văn D – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư TN chi nhánh tại huyện KB, tỉnh Đắk Lắk.

Địa chỉ: Thôn Z, xã PD, huyện KB, tỉnh Đắk Lắk; vắng mặt.

+ Người bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị M; trú tại: Thôn Y, xã X, huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bà M: Ông Nguyễn Huy E – Luật sư thuộc Chi nhánh Công ty luật TNHH hai thành viên B tại Đắk Lắk; vắng mặt.

Địa chỉ: HV, phường AB, thị xã BH, tỉnh Đắk Lắk;

2. Bà Chu Thị G và ông Bùi Minh K; trú tại: Thôn Y, xã X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; cùng có mặt.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Ông Thế H; trú tại: Thôn V, xã X, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ năm 2008, Phan Thị T đã vay mượn tiền của nhiều hộ dân và các tổ chức tín dụng trên địa bàn huyện K để làm ăn, buôn bán nhưng bị thua lỗ dẫn đến không còn khả năng để trả nợ cho các chủ nợ. Do bị các chủ nợ trước đòi ráo riết nhưng T không có tiền để trả nợ nên T đã nảy sinh ý định dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin giả cần vay tiền để đáo hạn nợ Ngân hàng, nhằm mục đích chiếm đoạt để lấy tiền trả nợ cho người khác, cụ thể:

Lần thứ nhất: Ngày 08/9/2018, bằng hình thức đưa ra thông tin vay tiền để đáo hạn nợ Ngân hàng, Phan Thị T đã đến nhà bà Chu Thị G, ông Bùi Minh K nói cần vay số tiền 300.000.000 đồng, mức lãi suất 3.000 đồng/triệu/ngày, thời hạn vay trong vòng 07 ngày để đi đáo hạn nợ ngân hàng. Do bà G, ông K chỉ có số tiền 290.000.000 đồng nên đã cho T vay số tiền 290.000.000 đồng. T là người trực tiếp viết vào giấy “Cam kết vay tiền” do bà G đưa mẫu cho T. Sau khi viết giấy “Cam kết vay tiền”, bà G yêu cầu T mang về cho chồng là ông Ông Thế H ký rồi giao lại giấy cho bà G. Sau khi nhân được tiền, T mang đi trả nợ cho người khác hết và không trả lại tiền cho bà G, ông K.

Lần thứ hai: Ngày 11/11/2018 (Tức ngày 05/10/2018 âm lịch) bằng hình thức, thủ đoạn như trên, T đến nhà bà Nguyễn Thị M nói cần vay số tiền 200.000.000 đồng để đi đáo hạn nợ Ngân hàng, mức lãi suất 2.000đồng/triệu/ngày, thời hạn vay trong vòng 01 tháng, bà M đồng ý. Sau khi hai bên thống nhất, T là người viết giấy “Cam kết vay tài sản”. Sau khi nhận được tiền, T mang đi trả nợ cho người khác hết và không trả lại tiền cho bà M. Ngoài số tiền 200.000.000 đồng trên thì vào chiều ngày 12/11/2018, T tiếp tục đến vay của bà M thêm số tiền 20.000.000 đồng và cho đến nay T vẫn không trả cho bà M.

Đến thời hạn trả nợ như đã cam kết, T không thực hiện việc trả tiền cho vợ chồng bà G, ông K và bà M. Tháng 12/2018, vợ chồng bà G, ông K và bà M làm đơn tố cáo Phan Thị T đến cơ quan Công an huyện Krông Năng về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tại Bản kết luận giám định số 378/PC09 ngày 27/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ viết, chữ ký mang tên Phan Thị T và Ông Thế H trong mẫu cần giám định (Giấy Cam kết vay tiền và Giấy cam kết vay tài sản) với chữ viết, chữ ký trong mẫu so sánh mang tên Phan Thị T và Ông Thế H là do cùng một người viết và ký ra.

Quá trình chuẩn bị xét xử sơ thẩm, bị cáo đã phối hợp với gia đình tự nguyện nộp số tiền 8.000.000 đồng để trả lại một phần cho bị hại, trong đó bà G, ông K 4.000.000 đồng và bà M 4.000.000 đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 24/2020/HSST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phan Thị T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS:

Xử phạt Phan Thị T 09 (chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt (ngày 19/7/2019) Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 19/5/2020, bị cáo Phan Thị T có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ngày 26/5/2020, người bị hại bà Nguyễn Thị M có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xét xử phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Thị T.

Ngày 28/5/2020. Người bị hại ông Bùi Minh K và bà Chu Thị G có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk tăng nặng hình phạt đối với bị cáo và buộc ông Ông Thế H phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm với bị cáo Phan Thị T.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án sơ thẩm đã nêu cũng như lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tại cơ quan điều tra và vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Tại phiên tòa, những người bị hại vẫn giữ nguyên nội dung đơn kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng :

Cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ đúng người, đúng tội. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà phúc thẩm bị cáo thừa nhận bị cáo vay tiền của nhiều người và đã mất khả năng thanh toán từ tháng 5 năm 2018. Do không có khả năng để trả nợ cho những người vay trước đó, bị cáo đã thực hiện hành vi gian dối với những người vay tiền sau để trả cho người vay trước chiếm đoạt tài sản của các bị hại, cụ thể bị cáo vay của bà G, ông K 330.000.000 đồng, 40.000.000 đồng vay trước đó, nên số tiền bị cáo chiếm đoạt là 290.000.000 đồng. vay của bà M là 220.000.000 đồng. Trong đó mục đích bị cáo khai vay bà M 20.000.000 đồng không thống nhất, bị cáo khai vay để đáo hạn ngân hàng, vay để làm ăn, vay để mua heo, mua gà, tại phiên toà bị cáo khai vay để mua phân và mua gà. Như vậy lý do bị cáo đưa ra khi vay bà M với những mục đích trên nhưng đều là hành vi gian dối. Đối với số tiền bị cáo vay bà L 120.000.000 đồng làm ba lần, trong đó lần đầu bị cáo khai vay 50.000.000 đồng, lần hai vay 30.000.000 đồng, lần 3 vay 40.000.000 đồng. Bị cáo thừa nhận lần bị cáo vay bà L vào thời gian khoảng tháng 7/2018 số tiền vay lần cuối cùng 40.000.000 đồng vào tháng 11/2018 và hai bên viết giấy vay tiền. Mục đích bị cáo nói với và Lộc khi vay số tiền này cũng giống như mục đích bị cáo khai khi vay tiền của bà M đối với số tiền vay 20.000.000 đồng. Tất cả số tiền bị cáo đưa ra thông tin gian dối để vay bị hại để trả nợ đều là tiền lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo tổng số tiền chiếm đoạt là 490.000.000 đồng, theo quy định tại khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là không đúng pháp luật, có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội.

Ông K, bà G kháng cáo buộc chồng bị cáo là ông H đồng phạm với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo khai do mất khả năng trả nợ bị cáo đi mượn tiền của ông K, bà G để trả. Sau khi cho vay số tiền trên ông K, bà G mới yêu cầu bị cáo mang giấy vay tiền trên về để cho chồng bị cáo là ông Ông Thế H ký xác nhận. Ông K, bà G cho rằng buộc Ông Thế H ký trước khi bị cáo nhận tiền. Như vậy lời khai của hai bên không thống nhất, do đó chưa có căn cứ để xác định bị cáo đưa giấy vay cho Ông Thế H ký trước hay sau khi nhận tiền, nên chưa đủ căn cứ xác định ông H có đồng phạm hay không đồng phạm. Ông Hà có ký giấy vay tiền, bị hại có kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, nên cần buộc ông H có trách nhiệm liên đới cùng bị cáo bồi thường cho bị hại số nợ nêu trên. Tuy nhiên do có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên:

Không chấp nhận kháng của bị cáo Phan Thị T;

Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS – ST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng, để điều tra, truy tố, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật.

* Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo:

Việc tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 174 BLHS là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt. Tuy nhiên, mức hình phạt 09 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, bởi lẽ: Tại phiên tòa sơ thẩm cũng như tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo đều thừa nhận hành vi của bị cáo là sai trái. Hoàn cảnh gia đình của bị cáo khó khăn, thuộc diện cận nghèo nhưng sau khi bị bắt tạm giam, bị cáo đã tích cực tác động gia đình bồi thường, khắc phục hậu quả cho người bị hại. Việc bị cáo vay mượn tiền là nhằm mục đích trả nợ do làm ăn thua lỗ, lo cho cuộc sống của gia đình chứ không phải vì mục đích tiêu xài cá nhân. Bị cáo đã ăn năn, hối cải và thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Việc lời khai của bị cáo có nhiều chỗ còn mâu thuẫn là do việc vay mượn diễn ra nhiều lần, trong một thời gian dài nên bị cáo không nhớ chính xác. Do đó, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với quan điểm của đại diện VKSND tỉnh Đắk Lắk đối với khoản tiền 120.000.000 đồng bị cáo vay của bà L thì đây là quan hệ dân sự bởi lẽ bị cáo vay tiền và vẫn có trả lãi cho bà L chứ không có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của bà L.

Bị cáo đồng ý với ý kiến của Luật sư bào chữa và không bào chữa, tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.

* Ý kiến của người bị hại bà Nguyễn Thị M và ông Bùi Minh K, bà Chu Thị G: Đề nghị HĐXX tăng nặng hình phạt đối với bị cáo và buộc bị cáo phải trả lại số tiền bị cáo đã chiếm đoạt được lại cho những người bị hại. Riêng ông Bùi Minh K, bà Chu Thị G còn đề nghị HĐXX xem xét buộc chồng của bị cáo là ông Ông Thế H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt đồng thời có trách nhiệm liên đới trả lại số tiền nói trên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để kết luận: Do làm ăn thua lỗ dẫn đến không có khả năng thanh toán các khoản nợ đã vay từ trước nên Phan Thị T đã đưa ra thông tin gian dối là cần vay tiền để đáo hạn ngân hàng để bà Nguyễn Thị M, vợ chồng ông Bùi Minh K và bà Chu Thị G tin tưởng cho T vay tiền. Sau khi chiếm đoạt được tiền của bị hại, bị cáo đã dùng số tiền này đi trả nợ cho một số người bị cáo đã vay trước đó, mà không trả tiền cho các bị hại như đã cam kết. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ, bảo đảm đúng người, đúng tội.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của những người bị hại, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[2.1]. Đối với số tiền bị cáo chiếm đoạt của bà M:

Quá trình điều tra vụ án bị cáo khai bị cáo vay bà M 220.000.000 đồng (trong đó ngày 05/10/2018 vay 90.000.000 đồng, ngày 25/10/2018 vay 110.000.000 đồng và ngày 12/11/2018 vay 20.000.000 đồng), khi vay bị cáo nói với bà M là vay để đáo hạn ngân hàng, để bị hại tin tưởng cho bị cáo vay tiền mặc dù bị cáo không còn khả năng thanh toán, sau đó bị cáo dùng số tiền này trả nợ người khác, thể hiện tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can tại các bút lục (BL 250 – 252), (BL 255 – 260), (BL 267-268).

Tại biên bản hỏi cung bị cáo (BL 278 – 281) bị cáo khai khi vay số tiền 20.000.000 đồng, bị cáo nói với bà M là “vay để mua heo về nuôi”, sau đó cũng tại biên bản này, bị cáo khai bị cáo và bà M thống nhất số tiền 20.000.000 đồng là tiền mượn tạm. Tại biên bản hỏi cung bị can (BL 292), bị cáo khai số tiền 20.000.000 đồng bị cáo nói với bà M là vay để sử dụng vào việc gia đình. Cả hai biên bản nói trên, bị cáo đều khai sau khi mượn được tổng số tiền 220.000.000 đồng của bà M, bị cáo đã mang đi trả nợ cho những người mà bị cáo đã vay từ trước.

Tại biên bản phiên tòa ngày 22/4/2020 (BL 532), bị cáo khai khi vay số tiền 20.000.000 đồng, bị cáo nói với bà M là vay để giải quyết việc gia đình và mua gà giống. Tại Biên bản phiên tòa ngày 14/5/2020 (BL 564), bị cáo lại khai số tiền 20.000.000 đồng bị cáo nói với bà M là vay để mua heo giống. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo khai khi vay bà M số tiền trên bị cáo nói là mượn tạm, sau đó bị cáo khai bị cáo nói với bà M vay để mua phân và mua gà. Như vậy lời khai của bị cáo không thống nhất về mục đích bị cáo nói với bà M khi vay bà M 20.000.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên toà bà M khai tổng cộng bị cáo chiếm đoạt của bị hại 220.000.000 đồng, sau khi vay bà M 200.000.000 đồng mục đích để đáo hạn Ngân hàng, bị cáo vay tiếp 20.000.000 đồng khi vay bị cáo nói với bà M mục đích vay để đáo hạn ngân hàng, do đó bà M mới tin tưởng và cho bị cáo vay. Lời khai của bà M phù hợp với lời khai của bị cáo tại các bút lục (BL 250 – 252), (BL 255 – 260), (BL 267-268).

Như vậy, trong quá trình điều tra vụ án cũng như tại phiên tòa, lời khai của bị cáo có sự mâu thuẫn về mục đích bị cáo nói với bà M khi vay số tiền 20.000.000 đồng. Mặt khác, bị cáo khai bị cáo nói với bà M vay nhằm các mục đích như đã nêu trên, thì bị cáo vẫn thừa nhận toàn bộ số tiền vay của bà M bị cáo đã dùng vào mục đích trả nợ cho người khác. Điều đó thể hiện bị cáo đã đưa ra thông tin gian dối để bị hại tin tưởng giao tiền cho bị cáo, sau đó bị hại tin tưởng giao tiền cho bị cáo, sau khi chiếm đoạt được tiền của bị hại bị cáo dùng toàn bộ số tiền này để trả nợ cho người khác, không có khả năng thanh toán cho bị hại.

[2.2]. Đối với số tiền 120.000.000 đồng bị cáo vay của bà Trần Thị L:

Quá trình điều tra vụ án và tại phiên toà bị cáo khai: Tại bút lục 254, 289 bị cáo khai khi vay tiền của bà L, bị cáo nói với bà L vay để trả nợ cho em, sau đó bị cáo khai mục đích vay để làm ăn, nhưng lại đem số tiền vay được để đi trả cho một số người khác. Tại BL 263 , BL267, BL 268 bị cáo khai khi vay tiền của bà L, bị cáo lừa bà L nói là “vay để đáo hạn ngân hàng, không nói cho họ biết ý định thật của tôi, họ tin thật nên cho tôi vay, nhưng sau khi vay xong không đáo hạn ngân hàng mà mang đi trả cho người khác”.

Tại bút lục 468, 469 bị cáo khai bị cáo vay số tiền 120.000.000 đồng của bà L làm ba lần, lần thứ nhất bị cáo vay của bà L 50.000.000 đồng, lần thứ hai vay bà L 30.000.000 đồng, lần thứ ba bị cáo vay của bà L 40.000.000 đồng và cộng lại viết giấy vay vào tháng 11/2018. Sau đó bị cáo đem số tiền này đi trả cho người khác gồm: Trả chị NCL3 thôn 4, xã Phú Xuân 50.000.000 đồng, trả cho chị NLC1, thôn 5, xã Phú Xuân 30.000.000 đồng, trả cho NLC2, thôn V, xã X 40.000.000 đồng. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo thừa nhận hai lần vay đầu bị cáo vay bà L vào khoảng tháng 7/2018 số tiền vay lần cuối cùng vào tháng 11/2018 và hai bên viết giấy vay tổng số tiền là 120.000.000 đồng. Bị cáo đã mất khả năng thanh toán vào tháng 5 năm 2018, để có tiền trả nợ cho những người bị cáo đã vay trước đó, bị cáo phải vay tiền của người khác để trả nợ, mặc dù không có khả năng thanh toán.

Quá trình giải quyết vụ án, bà L khai bị cáo vay của bà L 120.000.000 đồng, vay làm ba lần và viết giấy vay vào tháng 11/2018. Khi vay tiền của bà bị cáo nói mục đích vay tiền để đáo hạn ngân hàng, nên bà L đã tin tưởng bị cáo mới cho bị cáo vay tiền, phù hợp với lời khai của bị cáo tại các bút lục 263, BL 267, 268.

Hội đồng xét xử nhận thấy, ngoài số tiền 490.000.000 đồng bị cáo chiếm đoạt của các bị hại, còn có căn cứ xác định mặc dù bị cáo đã mất khả năng thanh toán, song bị cáo đã đưa ra thông tin gian dối làm cho bà M tin tưởng tiếp tục cho bị cáo vay 20.000.000 đồng, bà L tin tưởng cho bị cáo vay 120.000.000 đồng, sau đó bị cáo dùng số tiền này trả nợ cho người khác và không có khả năng thanh toán cho bà L và bà M. Toà án cấp sơ thẩm đã yêu cầu điều tra, truy tố bổ sung hành vi bị cáo vay bà M số tiền 20.000.000 đồng, nhưng cơ quan cảnh sát điều tra không chấp nhận. Như vậy, việc các cơ quan tiến hành tố tụng huyện Krông Năng chỉ khởi tố, truy tố và xét xử bị cáo Phan Thị T về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với số tiền 490.000.000 đồng theo khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự, là có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo.

[2.3]. Về hành vi của ông Ông Thế H:

Trong quá trình điều tra vụ án, xác định ông Ông Thế H là chồng của bị cáo. Tại cơ quan điều tra ông H khai (BL 316 – 317): Vợ chồng ông vay tiền của Ngân hàng và của nhiều người để làm ăn. Song vợ chồng ông làm ăn bị thua thua lỗ không còn khả năng thanh toán nợ nần. Do đó, vợ chồng có vay tiền của nhiều người để trả nợ cho những người đã nợ lâu mà chưa trả được, giải quyết việc trước mắt.

Tại bút lục 303, (BL 308-309) ông H khai: “đối với số tiền 330.000.000 đồng của vợ chồng GK, trước khi xuống vay, vợ chồng tôi bàn bạc nhau xuống nói dối vay để đáo hạn ngân hàng, vì nếu nói vay để trả nợ thì vợ chồng GK không cho vay. Sau khi vay được số tiền trên vợ tôi đã mang đi trả nợ hết …”. Bút lục 310 ông H khai: “… vợ tôi còn nói xuống nói dối bà M vay 220.000.000 đồng để đáo hạn Ngân hàng, khi vay được tiền thì lấy trả nợ còn trả cho ai, bao nhiêu thì tôi không biết”… “ Ngoài hai lần vay trên thì chúng tôi không có hành vi gian dối nào khi vay tiền”. Bút lục 314, 315 ông H khai: …“ Tôi chỉ tham gia cùng vợ bàn bạc vụ vay tiền của vợ chồng G - K…” Tại Biên bản lấy lời khai ngày 13/3/2019 (BL 261), bị cáo khai nhận: “các trường hợp vay tiền (trừ trường hợp ông H đi vay và ký vào giấy vay) thì bị cáo đều nói với ông H biết việc vay tiền vì chúng tôi là vợ chồng, chuyện tiền bạc phải nói cho nhau biết”; Tại biên bản hỏi cung bị can ngày 10/9/2019 (BL 271) bị cáo khai: “việc vay tiền của bà G, bà M, bà L thì bị cáo và chồng xác định ai vay được thì vay, tiền vay về cũng lo cho hoạt động làm ăn trả nợ của gia đình, vì thế nên không bàn bạc gì nhiều”.

Nhận thấy, quá trình điều tra vụ án bị cáo đã khai nhận bị cáo nói với ông H biết việc vay tiền (trừ trường hợp ông H đi vay và ký vào giấy vay). Ông H đều khai nhận vợ chồng không có khả năng thanh toán nợ nên đã bàn bạc đi vay để trả nợ, để tạo ra sự tin tưởng thì phải nói dối vay để đáo hạn ngân hàng thì mới vay được tiền. Thực tế ông H đã cùng bị cáo ký xác nhận vay của ông K, bà G số tiền 290.000.000 đồng. Tại phiên toà phúc thẩm, ông H cho rằng ông khai như vậy cho phù hợp với lời khai của vợ.

Như vậy, có dấu hiệu cho rằng ông Ông Thế H đồng phạm với bị cáo về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại Điều 174 BLHS.

Từ phân tích nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy, việc cơ quan tiến hành tố tụng huyện Krông Năng xác định ông H ký vào giấy vay 290.000.000 đồng đối với khoản vay của bà G nhằm bảo đảm trách nhiệm trả nợ, trước đó không có sự bàn bạc việc sử dụng thông tin gian dối để vay tiền, không có chứng cứ đồng phạm, nên không xử lý hành vi của ông H là chưa có căn cứ vững chắc, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

[3]. Về áp dụng pháp luật: Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm, bị cáo và gia đình khắc phục cho bị hại là bà Nguyễn Thị M 4.000.000 đồng; khắc phục cho ông Bùi Minh K và bà Chu Thị G 4.000.000 đồng, là không đáng kể so với số tiền bị cáo chiếm đoạt của bị hại. Song cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là không chính xác, cần rút kinh nghiệm.

Xét quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên toà cho rằng lời khai của bị cáo và ông K, bà G về việc chồng bị cáo ký vay số tiền bị cáo vay ông K, bà G trước, hay sau khi bị cáo nhận tiền không thống nhất, do đó chưa có căn cứ để xác định bị cáo đưa giấy vay cho Ông Thế H ký trước hay sau khi bị cáo nhận tiền của bà G, ông K, nên chưa đủ căn cứ xác định ông H có đồng phạm hay không đồng phạm. Có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự, tuyên không chấp nhận kháng của bị cáo Phan Thị T; Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS – ST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng để điều tra, truy tố, xét xử lại là có căn cứ cần chấp nhận.

Từ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, bỏ lọt hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó cần chấp nhận đơn kháng cáo của bị hại là bà Nguyễn Thị M, ông Bùi Minh K và bà Chu Thị G, hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS – ST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng. Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.

Do hủy toàn bộ bản án sơ thẩm nên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Phan Thị Thuỷ, HĐXX phúc thẩm không đặt ra để xem xét mà được cấp sơ thẩm xem xét khi xét xử lại vụ án.

[4] Về án phí:

Về án phí hình sự phúc thẩm: Do hủy bản án sơ thẩm nên bị cáo và những người bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của người bị hại bà Nguyễn Thị M, ông Bùi Minh K và bà Chu Thị G.

Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 24/2020/HS – ST ngày 14/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Krông Năng. Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Năng để điều tra, truy tố, xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Phan Thị T, những người bị hại bà Nguyễn Thị M, ông Bùi Minh K và bà Chu Thị G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 204/2020/HSPT ngày 19/08/2020 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:204/2020/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về