TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 204/2019/HSST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 29/11/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 200/2019/HSST ngày 15/11/2019 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 248/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2019, đối với bị cáo:
LÊ VĂN S – Sinh năm: 1994, tại: Bình Thuận. Nơi ĐKHKT và chỗ ở hiện nay: khu phố 03, phường Ph, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Số CMND: 261333047; Nghề nghiệp: làm thuê; Trình độ văn hóa: không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Con ông: Lê Văn H, sinh năm 1964 và bà: Lê Thị L, sinh năm 1963; Vợ con: chưa có; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng:
1/ Ông Huỳnh Thành C, sinh năm 1993 (có mặt).
Trú tại: Khu phố 03, phường Ph, Tp. P, tỉnh Bình Thuận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Bảo T, sinh ngày: 25/7/2001 (vắng mặt).
Trú tại: Khu phố 03, phường Ph, Tp. P, tỉnh Bình Thuận
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 20 giờ ngày 15/6/2019, Lê Văn S (sinh năm 1994, trú tại: Khu phố 03, phường Ph, Tp. P, tỉnh Bình Thuận) và Nguyễn Bảo T (sinh ngày 25/7/2001, trú tại khu phố 06, phường Ph, thành phố P) đến nhà của T1 (không rõ nhân thân) ở khu phố 03, phường Ph nhậu. Đến 21 giờ 45 phút cùng ngày, sau khi nhậu xong, S mượn xe mô tô biển số 86T2-9770 của T và nói đi công chuyện một lúc. Sau đó, S điều khiển xe mô tô chạy đến chân cầu Cà Ty, thành phố Phan Thiết gặp một người tên V (không rõ nhân thân) hỏi mua 150.000 đồng ma túy đá. V đồng ý và bán cho S 01 tép ma túy đá đựng trong 01 gói nylon được hàn kín hai đầu. S cất tép ma túy vào túi quần Jean phía sau, bên phải của mình và điều khiển xe mô tô về nhà của T1 chở C và T.
Khi S vừa chở C và T đi được khoảng 10 mét thì bị Cảnh sát 113 yêu cầu dừng xe kiểm tra, phát hiện S đang tàng trữ trái phép chất ma túy trong túi quần phía sau, bên phải nên đã đưa về Công an phường Ph làm việc. Tại Cơ quan Công an, S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên, đồng thời khai nhận tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng.
Vật chứng của vụ án:
-01 gói nylon được hàn kín hai đầu, kích tước khoảng (2,8 x 01)cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng (ký hiệu là M khi giám định), được thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của Sáu.
-01 xe mô tô hiệu UFO, biển số 86T2-9770, số khung RMNWCHEMNGH002815, số máy VHLFM152FMHV202815 (là phương tiện Sáu dùng để đi mua ma túy).
Tại bản kết luận giám định số 585/KLGĐ-PC09, ngày 03/7/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận đã kết luận:
“Mẫu M gửi giám định có khối lượng 0,1558 gam là Methamphetamine”
Hoàn lại mẫu vật sau giám định: 01 gói nylon đã cắt lấy mẫu và 0,0861 gam mẫu M còn lại sau giám định, được niêm phong trong phong bì số 585 có chữ ký của Giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận.
Quá trình điều tra, xác định được Lê Văn S cất giữ số ma túy trên là để sử dụng không có mục đích bán cho người khác.
Đối với chiếc xe mô tô biển số 86T2-9770, Nguyễn Bảo T khai do bà Nguyễn Thị Mỹ N (trú tại: khu phố 02, phường Ph, thành phố P) là mẹ của T mua và giao xe cho T làm phương tiện đi lại. Hiện nay, bà N không có mặt tại địa phương, đi đâu làm gì không rõ.
Qua xác minh, biển số xe 86T2-9770 là biển đăng ký được cấp cho xe mô tô có số khung RMNWCHMMN9H003003, số máy: HLFM152FMH-V00703003, do ông Trần Văn C (sinh năm 1964, trú tại: thôn K, xã H, huyện B, tỉnh Bình Thuận) đứng tên trên giấy đăng ký. Đối với xe mô tô có số khung RMNWCHEMNGH002815, số máy VHLFM152FMHV202815, Cơ quan cảnh sát điều tra –Công an thành phố Phan Thiết đã truy cứu nhưng không xác minh được nguồn gốc chiếc xe trên. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Phan Thiết tiếp tục tạm giữ xe mô tô trên để xác minh làm rõ và xử lý sau.
Bản cáo trạng số 188/CT-VKS ngày 12/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết, truy tố Lê Văn S, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết luận tội đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, giữ nguyên quyết định truy tố theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố: Lê Văn S, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Lê Văn S từ 12 tháng đến 18 tháng tù.
Áp dụng: Điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong số 585 có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và hình dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Thuận vì đây là vật chứng vụ án nhưng là vật cấm lưu hành.
Bị cáo không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[ [1] Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Thiết và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Lê Văn S tại phiên tòa sơ thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và người làm chứng, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng đã thu giữ và kết luận giám định, phù hợp với các tài liệu điều tra về khả năng nhận thức, điều khiển hành vi của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận vào lúc 22 giờ ngày 15/6/2019, tại khu phố 03, phường Ph, thành phố P, lực lượng Cảnh sát 113 tuần tra, phát hiện và bắt quả tang Lê Văn S có hành vi tàng trữ trái phép 0,1558 gam Methamphetamine trong túi quần phía sau bên phải nhằm mục đích sử dụng.
Hành vi của bị cáo Lê Văn S cho thấy bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe con người, sự phát triển giống nòi của dân tộc và là một trong những căn nguyên làm phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác cho xã hội, bị cáo cũng nhận thức được Methamphetamine là loại ma túy gây nghiện, Nhà nước nghiêm cấm và nghiêm khắc xử lý đối với mọi hành vi mua bán, vận chuyển, tàng trữ … trái phép chất ma túy nhưng bị cáo bất chấp hậu quả pháp lý. Rõ ràng hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của Lê Văn S là hành vi cố ý, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, hơn nữa còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Hành vi vừa nên trên của Lê Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, với tình tiết tàng trữ “Heroin, Cocaine, Methamphetamine … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” tội phạm và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng đã truy tố là có căn cứ.
[3] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đề xuất của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy là hợp lý vì quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thể hiện sự thành khẩn; bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét áp dụng khi lượng hình đối với bị cáo.
[4] Căn cứ vào tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ cũng như nhân thân của bị cáo, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để giáo dục trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.
[5] Quá trình điều tra vụ án Lê Văn S khai nguồn gốc ma túy tàng trữ vào ngày 15/6/2019, Sáu khai mua từ một người tên Vương nhưng không rõ nhân thân lai lịch. Do không xác định được nhân thân, địa chỉ của đối tượng này nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với Nguyễn Bảo Thắng và Huỳnh Thành Công là những người có mặt tại thời điểm S bị bắt quả tang nhưng không biết việc S đi mua ma túy và cũng không tham gia với S trong việc tàng trữ, cất giấu ma túy, do đó không có vai trò đồng phạm nên Cơ quan CSĐT Công an thành phố Phan Thiết không xử lý là có căn cứ.
Việc xử lý như trên là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật nên không đặt ra để xử lý nữa.
[6] Vật chứng của vụ ánï:
- Một phong bì niêm phong số 585, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là vật chứng của vụ án nhưng là vật cấm lưu hành, nghĩ nên tịch thu tiêu hủy. (Hiện toàn bộ số tang vật trên đang tạm gửi tại Chi cục thi hành án dân sự Tp. Phan Thiết theo biên bản giao nhận vật chứng số 32 lập ngày 15/11/2019).
Riêng chiếc xe mô tô hiệu UFO, biển số 86T2-9770, số khung RMNWCHEMNGH002815, số máy VHLFM152FMHV202815; hiện nay Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an chưa xác minh làm rõ được chủ sở hữu nên tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý sau. Việc xử lý như trên là có căn cứ, phù hợp với các quy định của pháp luật nên không đặt ra để xử lý nữa.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Lê Văn S, phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự .
Xử phạt: Lê Văn S 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt thi hành án.
ÁP DỤNG: Điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong số 585, có chữ ký của giám định viên Đoàn Thảo N và dấu tròn màu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Thuận. Đây là vật chứng của vụ án nhưng không có giá trị sử dụng và là vật cấm lưu hành.
(Hiện toàn bộ số tang vật trên đang tạm gửi tại Chi cục thi hành án dân sự Tp. Phan Thiết theo biên bản giao nhận vật chứng số 32 lập ngày 15/11/2019).
Áp dụng: Khoản 2 Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Lê Văn S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/11/2019). Nguyễn Bảo T là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niểm yết bản án.
Bản án 204/2019/HSST ngày 29/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 204/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về