Bản án 203/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 203/2020/HS-ST NGÀY 19/11/2020 VỀ TỘI CHỨA MẠI DÂM VÀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 19 tháng 11 năm 2020, tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 190/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 195/2020/QĐXXST-HS ngày 02/11/2020 và thông báo thay đổi thời gian xét xử số 26/2020/TB-TA ngày 04/11/2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Thị H1; Tên gọi khác: không; Sinh ngày: 26/7/19xx, tại huyện H3, tỉnh Đ; Nơi ĐKHKTT: Khu H4, phường K, thị xã T2, tỉnh Quảng Ninh; Chỗ ở: Tổ X, khu S1, phường S2, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hoàng Văn M và bà: Nguyễn Thị Y; Chồng: Phạm Ngọc T1 (đã chết), có 01 con: sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt giữ khẩn cấp ngày 08/7/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Quảng Ninh – Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và là người làm chứng:

1. Anh Trần Văn V, sinh năm 19xx, trú tại: Xóm X, xã V, huyện T3, tỉnh Y1 – Vắng mặt tại phiên tòa.

2. Chị Lê Thị H2, sinh năm 1988, trú tại: Thôn Nam T4, xã C, huyện H5, tỉnh H6 – Vắng mặt tại phiên tòa.

* Người làm chứng: Chị Mai Thị X, chị Nguyễn Thị H3, anh Hoàng Tuấn A, anh Nguyễn Thành T – Đều vắng mặt tại phiên tòa.

* Người chứng kiến: Các anh Đinh Khắc D, Nguyễn Văn P - Đều vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 5/2019, Hoàng Thị H1 thuê căn nhà 03 tầng của gia đình chị Nguyễn Thị H3 ở số nhà 198, đường Hoàng Quốc Việt thuộc tổ X, khu S1, phường S2, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh để ở và bán quán nước. Khoảng tháng 4/2020, do ảnh hưởng từ dịch Covid nên việc bán quán nước không đủ thu nhập để trả tiền nhà và chi tiêu, H1 nảy sinh ý định chứa mại dâm nên đã gọi điện thoại cho Mai Thị X và Lê Thị H2 (có quen biết nhau từ khi cùng làm gái bán dâm tại xã Cộng Hòa) rủ đến thành phố Cẩm Phả để bán dâm. Khi H2 và X đồng ý, X đến nhà H1 làm gái bán dâm từ cuối tháng 4, H1 bố trí cho X ở và sinh hoạt tại phòng số 03 tầng 2 (tầng 2 có hai phòng đánh số 03, 04). Đến tháng 5/2020, thì H2 đến, H1 bố trí cho H2 ở phòng số 05 tầng 3 (tầng 3 có hai phòng đánh số 04, 05). H1 thỏa thuận với X và H2 bán dâm cho khách đến mua dâm tại nhà hoặc được bố trí đến địa điểm khác bán dâm, theo chỉ đạo và sắp xếp của H1, tiền ăn và ở X, H2 không phải trả cho H1. Nếu khách đến mua dâm tại nhà, thì H1 trực tiếp thỏa thuận giá với khách là 200.000 đồng/01người/01lượt, còn khách có nhu cầu mua dâm nơi khác là 300.000 đồng/01 người/01lượt. Sau mỗi lượt bán dâm, thì H1 và gái bán dâm mỗi người hưởng ½ số tiền bán dâm. H1 đã bố trí cho X, H2 bán dâm nhiều lần tại nhà và ở nơi khác. Trong đó: Từ ngày 05/7 đến ngày 07/7/2020, H1 đã bố trí 05 lần cho H2 và 03 lần cho X bán dâm tại nhà. Tổng số tiền bán dâm thu được là 1.600.000 đồng.

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, có Trần Văn V (sinh năm 19xx, trú tại huyện T3, tỉnh Y) và Hoàng Tuấn A (sinh năm 19xx, trú tại phường T4, thành phố Cẩm Phả) đến nhà H1 để mua dâm và thỏa thuận với H1 bố trí nhân viên đến nhà nghỉ S3 bán dâm với giá 300.000 đồng/người/lượt. Tuấn A đưa cho V 300.000 đồng, V lấy 300.000 đồng, rồi đưa 600.000 đồng cho H1. Sau đó, H1 gọi X, H2 bảo đi bán dâm và gọi taxi chở đến nhà nghỉ S3 thuộc tổ 5, khu Cao Sơn 3, phường S2, thành phố Cẩm Phả. X vào phòng 208, còn H2 vào phòng 206 nhà nghỉ S3. Khi H2 đang quan hệ tình dục với Tuấn A; X đang quan hệ tình dục với V, thì bị Công an phát hiện kiểm tra.

Công an đã thu giữ các vật chứng: Tại phòng 206: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu “AN PHU”, thu của H2 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 màu xanh, gắn sim số 0342.080.xxx; Tại phòng xxx: 01 bao cao su đã qua sử dụng, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu “VIP”, thu của V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, gắn sim số 0985.234.xxx.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả giữ khẩn cấp H1 thu giữ 600.000 đồng, gồm 03 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO F9 màu đỏ, tím. Khám xét chỗ ở của Hoàng Thị H1 phát hiện, thu giữ: Tại ngăn kéo tủ trong phòng ngủ của H1 01 túi bóng màu đen bên trong có 12 bao cao su chưa qua sử dụng màu vàng nâu, nhãn hiệu “ROMAX” và 10 gel bôi trơn chưa qua sử dụng màu xanh, nhãn hiệu “VIP”; Tại phòng của X 02 bao cao su chưa qua sử dụng màu vàng nâu, nhãn hiệu “ROMAX” và 03 gel bôi trơn chưa qua sử dụng màu xanh, nhãn hiệu “VIP”.

Tại bản Cáo trạng số: 187/CT- VKSCP ngày 06/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đã truy tố bị cáo Hoàng Thị H1 về tội: “Chứa mại dâm” và “Môi giới mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 và điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo H1 khai nhận về hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án đã nêu, bị cáo là người trực tiếp thuê nhà của gia đình chị H3 với số tiền 5.000.000 đồng/tháng, tiền nhà, tiền điện nước đều do bị cáo thanh toán và bắt đầu hoạt động chứa mại dâm từ tháng 5/2020, bị cáo đã bố trí phòng cho chị X bán dâm được 05 lượt khách, chị H2 bán dâm được 03 lượt khách tại nhà bị cáo thuê với giá mỗi lượt là 200.000 đồng, bị cáo được chia tổng cộng số tiền là 800.000 đồng, số tiền này bị cáo đã dùng để chi phí sinh hoạt cho cả gái bán dâm nên đã hết. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, bị cáo bố trí cho chị H2, chị X bán dâm cho anh Trần Văn V và Hoàng Tuấn A tại nhà nghỉ S3, thỏa thuận giá 300.000 đồng/người/lượt, bị cáo đã nhận số tiền 600.000 đồng do anh V. Trong lúc H2 đang quan hệ tình dục với Tuấn A; X đang quan hệ tình dục với V tại nhà nghỉ S3 thuộc phường S2, thành phố Cẩm Phả thì bị Công an phát hiện kiểm tra và thu giữ vật chứng đúng như nội dung vụ án đã nêu. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố về tội “Chứa mại dâm” theo điểm c khoản 2 Điều 327 và tội “Môi giới mại dâm” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự là hành vi phạm tội của bị cáo. Gia đình bị cáo hết sức khó khăn, chồng chết, bị cáo phải nuôi 01 con đang tuổi ăn học nên bị cáo là lao động chính trong gia đình, vì kinh tế thực sự khó khăn đã đi vào con đường phạm tội, từ khi bị cáo bị bắt thì hoàn cảnh gia đình bị cáo còn khó khăn hơn rất nhiều, bị cáo còn có bố đẻ là người có công với cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và là người làm chứng anh Trần Văn V, người làm chứng Hoàng Tuấn A và đều là người mua dâm – Vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong quá trình điều tra thể hiện: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, V và Tuấn A có đến quán của Hoàng Thị H1 tổ X, khu S1, phường S2, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh đặt vấn đề mua dâm với gái bán dâm tại nhà nghỉ S3 thuộc phường S2, H1 đồng ý và thỏa thuận với V về giá mua dâm là 300.000 đồng/01 người/01 lần. V đã đưa cho H1 số tiền 600.000 đồng, H1 nhận tiền rồi bố trí cho X, H2 mua bán dâm ở hai phòng khác nhau tại nhà nghỉ. Trong lúc H2 đang quan hệ tình dục với Tuấn A; X đang quan hệ tình dục với V tại nhà nghỉ S3 thì bị Công an phát hiện kiểm tra phát hiện, bắt quả tang.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và là người làm chứng chị Lê Thị H2, người làm chứng chị Mai Thị X và đều là người bán dâm – Vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai trong quá trình điều tra thể hiện: X đến nhà H1 làm gái bán dâm từ cuối tháng 4/2020, H2 đến nhà H1 làm gái bán dâm từ tháng 5/2020. Các chị đều có thỏa thuận với H1 về việc nếu có khách mua dâm thì sẽ bán dâm cho khách, giá mỗi lần bán dâm là 200.000 đồng/01 người/01 lần, gái bán dâm sẽ được hưởng 100.000 đồng. X, H2 đã bán dâm cho khách tại nhà thuê của H1 nhiều lần nhưng chỉ nhớ được các lần gần đây, chị X bán dâm được 05 lượt khách được chia 500.000 đồng, chị H2 bán dâm được 03 lượt khách được chia 300.000 đồng.

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, H1 có bố trí cho H2 bán dâm cho Tuấn A; X bán dâm cho V tại nhà nghỉ S3, thuộc tổ 5 khu S 3, phường S2, thành phố Cẩm Phả thì bị Cơ quan Công an phát hiện, bắt quả tang.

Người làm chứng là chị Nguyễn Thị H3 vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại Cơ quan điều tra thể hiện: Chị là chủ sở hữu hợp pháp của căn nhà số xxx, đường V thuộc tổ X, khu S1, phường S2, thành phố Cẩm Phả, từ tháng 5/2019 chị cho Hoàng Thị H1 thuê với giá 5.000.000 đồng/tháng, hai bên không làm hợp đồng thuê nhà theo quy định, mà thỏa thuận miệng, chị ở bên Đ nên không biết H1 sử dụng nhà để chứa gái bán dâm và thực hiện việc phạm tội mua bán dâm.

Người làm chứng là anh Nguyễn Thành T vắng mặt tại phiên tòa có lời khai tại Cơ quan điều tra thể hiện: Anh có quan hệ tình cảm yêu đương với H1 từ năm 2018, anh biết việc H1 thuê nhà của chị H3 ở tổ X, khu S1, phường S2, thành phố Cẩm Phả nhưng anh không ở cùng với H1 nên không biết việc H1 tổ chức cho gái bán dâm tại căn nhà thuê này.

Người chứng kiến là các anh Đinh Khắc D, Nguyễn Văn P vắng mặt tại phiên tòa nhưng có lời khai tại cơ quan điều tra thể hiện: Ngày 08/7/2020, tại nhà nghỉ S3 thuộc tổ x, khu S3, phường S2, thành phố Cẩm Phả các anh chứng kiến công an bắt quả tang trong phòng 206 H2 bán dâm cho Tuấn A, trong phòng xxx, X bán dâm cho V, công an đã thu giữ và niêm phong vật chứng theo đúng quy định.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Hoàng Thị H1, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 327; điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự, đề nghị xử phạt: Hoàng Thị H1 từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) 06 (sáu) tháng tù, về tội “Chứa mại dâm”; từ 03 (ba) năm đến 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt:

Buộc bị cáo Hoàng Thị H1 phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/7/2020.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý vật chứng của vụ án theo quy định của pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không tranh luận gì thêm, bị cáo thấy ân hận với hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hoàng Thị H1 không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà Hoàng Thị H1 khai nhận về hành vi phạm tội đúng với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu như: Biên bản kiểm tra lập hồi 15 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, Bản ảnh, Sơ đồ và Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản khám xét; Biên bản tạm giữ và Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; cũng như các Biên bản kiểm tra điện thoại di động; Bản ảnh xác định địa điểm:

Biên bản bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp và còn phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, cùng với các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 5/2020 đến ngày 07/7/2020, tại nhà của Hoàng Thị H1 thuê ở tổ X, khu S1, phường S2, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, H1 có hành vi tổ chức cho Mai Thị X và Lê Thị H2 nhiều lần bán dâm cho nhiều người để thu lợi bất chính. Trong đó: từ ngày 05/7 đến 07/7/2020, H1 bố trí cho X và H2 bán dâm 08 lần cho người mua dâm, thu lợi 1.600.000 đồng nên đã phạm tội “Chứa mại dâm” với tình tiết định khung tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, vào khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, Hoàng Thị H1 còn môi giới cho Mai Thị X và Lê Thị H2 đến nhà nghỉ S3, thuộc tổ x, khu S3, phường S2, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, để H2 bán dâm cho Trần Văn V và X bán dâm cho Hoàng Tuấn A, thu lời bất chính 600.000 đồng nên đã phạm tội “Môi giới mại dâm” với tình tiết định khung tăng nặng “Đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 328 Bộ luật hình sự. Như vậy, bản cáo trạng số 187/CT- VKSCP ngày 06/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố đối với Hoàng Thị H1 là đúng người, đúng tội, có căn cứ nên chấp nhận lời luận tội của Kiểm sát viên đối với bị cáo.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi “mại dâm” là một trong những nguyên nhân dẫn đến lây truyền những căn bệnh nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình, trực tiếp xâm đến đạo đức, nếp sống văn minh, thuần phong, mỹ tục, đời sống văn hoá, trật tự trị an xã hội là khách thể quan trọng được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Bị cáo là người trưởng thành, nhận thức được sự nghiêm cấm của pháp luật đối với hành vi của mình, nhưng vì lười lao động, ý thức rèn luyện kém và hám lời nên đã tổ chức hoạt động mại dâm trong một thời gian dài làm ảnh hưởng xấu đến nếp sống văn hóa mới, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, việc đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết và áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc mới phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, lần đầu phạm tội, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã tự nguyện tác động đến gia đình để nộp lại số tiền thu lời bất chính, khắc phục một phần hậu quả cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Mặt khác cũng cần phải xem xét đến hoàn cảnh gia đình bị cáo hết sức khó khăn, chồng đã chết, có 01 con đang tuổi ăn học nên bị cáo là lao động chính trong gia đình, bị cáo có bố đẻ là người có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Nhì, Huy chương chiến sỹ giải phóng; Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên dù xem xét đến đâu cũng cần bắt bị cáo phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ 02 bao cao su đã qua sử dụng, ngoài ra còn thu giữ 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu “ANPHU”, 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu “VIP”, 14 bao cao su chưa qua sử dụng, 13 gel bôi trơn màu xanh là công cụ, tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy. Cơ quan cảnh sát điều tra thu giữ của bị cáo 600.000 đồng đây là tiền bị cáo phạm tội mà có và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ nhà nước. Ngoài ra số tiền bị cáo thu lời bất chính đã xác định được: X bán dâm 03 lượt, H2 bán dâm 05 lượt đúng như cáo trạng đã nêu, tổng cộng 1.600.000 đồng, bị cáo được chia 800.000 đồng cần buộc bị cáo phải nộp lại để sung quỹ nhà nước, gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp lại số tiền này tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả. Cơ quan điều tra đã thu giữ của chị Lê Thị H2 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPP F11, thu giữ của anh Trần Văn V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, do chị H2 và anh V không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nên cần trả lại cho anh V và chị H2.

Đối với căn nhà bị cáo dùng để chứa mại dâm, đây là nhà bị cáo thuê của chị Nguyễn Thị H3, chị H3 không biết bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên không có cơ sở để xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Chị Mai Thị X, Lê Thị H2 có hành vi bán dâm và Trần Văn V, Hoàng Tuấn A có hành vi mua dâm, Công an thành phố Cẩm Phả đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 2 Điều 327; điểm đ khoản 2 Điều 328; điểm s khoản 1, Khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Thị H1 phạm tội: “Chứa mại dâm” và tội “Môi giới mại dâm”.

Xử phạt Hoàng Thị H1 05 (năm) năm tù về tội “Chứa mại dâm”; 03 (ba) năm tù về tội “Môi giới mại dâm”. Tổng hợp hình phạt: Buộc bị cáo Hoàng Thị H1 phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là: 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt (ngày 08/7/2020).

Áp dụng: Điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Khoản 1: điểm a, b, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Truy thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 800.000 đồng (Tám trăm nghìn đồng) do bị cáo phạm tội mà có, gia đình bị cáo đã nộp xong theo biên lai thu tiền số 0004107 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) bao cao su đã qua sử dụng, 01 (một) vỏ bao cao su nhãn hiệu “ANPHU”; 01 vỏ bao cao su nhãn hiệu “VIP”; 14 (mười bốn) bao cao su màu vàng nâu, nhãn hiệu “ROMAX” chưa qua sử dụng; 13 (mười ba) gel bôi trơn màu xanh, nhãn hiệu “VIP” chưa qua sử dụng Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F9, màu đỏ tím kèm 02 sim.

Trả lại cho chị Lê Thị H2 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPP F11 màu xanh kèm 01 sim.

Trả lại cho anh Trần Văn V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105 màu đen, model: TA-1010 số IMEI: 355763106465xxx kèm 01 sim.

Tình trạng vật chứng, tài sản thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 23/BB-THA ngày 02/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo Hoàng Thị H1 phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào các Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Án xử công khai sơ thẩm có mặt: bị cáo, vắng mặt: người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

362
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2020/HS-ST ngày 19/11/2020 về tội chứa mại dâm và tội môi giới mại dâm

Số hiệu:203/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về