TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ C
BẢN ÁN 203/2020/HS-ST NGÀY 08/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2020/HS-ST ngày 24 tháng 3 năm 2020, đối với bị cáo: Trần Trung S (Chuối nhỏ), sinh năm 1988 tại C.
Nơi cư trú: 70/50/15 C1, phường C2, quận N, thành phố C.
Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam;
Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Quốc Q và bà Trần Ngọc L.
Tiền án 03 lần:
Lần 1: Ngày 29/6/2011, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố C xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Chấp hành án xong ngày 22/02/2014;
Lần 2: Ngày 05/9/2017, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố C xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản;
Lần 3: Ngày 14/11/2017, bị Tòa án nhân dân quận B, thành phố C xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản. Tổng hợp hình phạt 01 năm 09 tháng tù. Chấp hành án xong ngày 24/10/2018, chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường dân sự;
Tiền sự: 03 lần.
Lần 1: Ngày 18/4/2014, bị Công an quận N, thành phố C xử phạt 2.500.000 đồng về hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác. Chưa đóng phạt;
Lần 2: Ngày 06/01/2019, bị Công an quận N, thành phố C xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Chưa đóng phạt;
Lần 3: Ngày 26/4/2019, bị Tòa án nhân dân quận N, thành phố Cần áp dụng biện pháp xử phạt hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Chưa chấp hành.
Bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam Xuyên Mộc (xã Tân Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) - theo Quyết định thi hành án phạt tù số 08/2020/QĐ-CA ngày 18/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Có mặt
Người bị hại :
- Nguyễn Đức M, sinh năm 1950. Vắng mặt Nơi cư trú: 64 C1, phường C2, quận N, thành phố C.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :
- Nguyễn Thanh T1, sinh năm 1995. Vắng mặt Nơi cư trú: 88/59D C1, phường C2, quận N, thành phố C.
- Trần Quốc Q, sinh năm 1959. Có mặt Nơi cư trú: 70/50/15 C1, phường C2, quận N, thành phố C.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 13/3/2019, Trần Trung S phát hiện nhà kho chứa vật liệu xây dựng của nhà thờ A tại địa chỉ số 64 C1, phường C2, quận N, thành phố C không có người trông coi, quản lý tài sản nên S đi vào lấy trộm 19 thanh sắt hiệu Pomia (loại sắt phi 20) mang ra để ở bãi đất trống cạnh nhà thờ A. Sau đó, S cùng Nguyễn Thanh T1 đi bộ mang số tài sản trên về cất giấu ở nhà của S tại số 70/50/15 C1, phường C2, quận N, thành phố C. Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, bị hại trình báo cơ quan Công an.
Qua rà soát, trích xuất camera, nhận dạng đối tượng đã xác định Trần Trung S và Nguyễn Thanh Tân là người thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Ngày 14/3/2019, ông Trần Quốc Q là cha ruột của Trần Trung S tự nguyện giao nộp 19 thanh sắt mà S, Tân đã lấy trộm.
Ngày 15/3/2019, Nguyễn Thanh T1 làm việc tại cơ quan Công an thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản cùng Trần Trung S. Đới với Trần Trung S, sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản đã bỏ trốn khỏi địa phương và tiếp tục phạm tội bị Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu khởi tố, truy nã. Ngày 18/12/2019, S bị bắt theo lệnh truy nã tại phường A, quận N, thành phố C.
Qua làm việc, S thừa nhận hành vi trộm cắp tài sản cùng với Nguyễn Thanh T1 vào ngày 13/3/2019 tại nhà kho chứa vật liệu xây dựng nhà thờ A, sau đó mang về cất giấu tại nhà của S để bán lấy tiền tiêu xài.
Lời khai của Trần Trung S, Nguyễn Thanh T1 phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được.
Tại Kết luận định giá tài sản số 320/BKL-HĐĐG ngày 01/4/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự, kết luận: 19 thanh sắt nhãn hiệu Pomina, màu xám đen, loại đường kính 20 mm, chiều dài 2.52 m/cây, tổng trọng lượng 91.2 kg có giá trị 1.404.480 đồng.
Đối với Trần Trung S có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích. Đới với Nguyễn Thanh T1, chưa có tiền án, tiền sự, Tân trộm cắp tài sản có giá trị 1.404.480 đồng nên chưa đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T1 về hành vi trộm cắp tài sản.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận N đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu là ông Nguyễn Đức Mười.
Về trách nhiệm dân sự, ông Nguyễn Đức M đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì khác.
Cáo trạng số 52/VKSNK ngày 10/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố bị cáo Trần Trung S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên cáo trạng, bị cáo có nhiều tiền án không cải sửa lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, xem thường pháp luật nên cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội khoảng thời gian nhất định để răn đe, giáo dục.
Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
Về tình tiết tăng nặng, bị cáo chịu tình tiết định khung nên không phải chịu tình tiết tăng nặng.
Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt Trần Trung S từ 01 năm 06 đến 02 năm tù. Tổng hợp hình phạt với bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tài bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Ghi nhận việc bị hại đã nhận lại tài sản.
Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên, có lời nói sau cùng là xin giảm nhẹ hình phạt để sớm về với gia đình.
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Về hành vi phạm tội: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người bị hại và chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra.
Đây là vụ án có đồng phạm, nhưng giản đơn. Vào chiếu tối ngày 13/3/2019 Trần Trung S cùng Nguyễn Thanh T1 vào lấy trộm sắt tại công trình xây dựng nhà thờ A tại số 64 C1, phường C2, quận N, thành phố C. Tài sản lấy trộm (sắt xây dựng), qua định giá có giá trị là 1.404.480 đồng.
Nguyễn Thanh T1, chưa có tiền án, tiền sự nên không bị truy cứu trach nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.
Trần Trung S, có nhiều tiền án, tiền sự chưa được xóa tiền sự, xóa án tích lại tiếp tục phạm tội, nên phải chịu trách nhiệm hình sự.
Hành vi của bị cáo là quá xem thường pháp luật, không cải sửa làm lại cuộc đời mà tiếp tục phạm tội. Gần như lấy việc trộm cắp làm nguồn thu nhập chính để sinh sống. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm thì mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.
Đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.
Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng, bị cáo đã chịu tình tiết định khung nên không phải chịu tình tiết tăng nặng.
Về xử lý vật chứng: Bị hại đã nhận lại 19 thanh sắt (Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 20/5/2019 - BL 19), nên ghi nhận.
Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 56 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố : Bị cáo Trần Trung S (Chuối nhỏ) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử ph ạt : Bị cáo Trần Trung S (Chuối nhỏ) 01 năm 06 tháng tù. Tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự phúc thẩm số 74/2020/HS-PT ngày 20/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18/12/2019.
Về xử lý vật chứng : Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Ghi nhận việc người bị hại đã nhận lại tài sản (Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày ngày 20/5/2019).
Về án phí hình sự sơ thẩm : Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
Về quyền kháng cáo bản án : Bị cáo, người liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết hoặc tống đạt bản án.
Bản án 203/2020/HS-ST ngày 08/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 203/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/12/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về