Bản án 203/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 203/2018/HSST NGÀY 30/10/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Hôm nay ngày 30 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 222/2018/HSST ngày 15/10/2018, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 222/QĐXXSTngày 19/10/2018 đối với bị cáo:

Phạm Thị Bích N; sinh ngày 02 tháng 9 năm 1983 tại Hà Nội; Hộ khẩu thường trú: P2 B38 tập thể Y, phường T, quận Đống Đa, Hà Nội (số mới: số 2 ngách 82/28 phố Y, phường T, quận Đống Đa, Hà Nội); Chỗ ở hiện nay: không nơi ở cố định; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 2/12; con ông: Phạm Văn Tỵ vàbà: Nguyễn Thị Lương ; có hai con lớn sinh năm 2002 nhỏ sinh năm 2006.Danh chỉ bản số 305 lập ngày 03/7/2018 tại Công an quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội.Tiền sự: Không

01 Tiền án: Ngày 04/9/2015 Tòa án nhân dân quận Tây Hồ xử phạt 24 tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy.

Tạm giữ: 21/6/2018; tạm giam: 27/6/2018 - (Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 20/6/2018, tổ công tác công an phường Hàng Buồm trong khi làm nhiệm vụ trên địa bàn phát hiện Phạm Thị Bích N đang ngồi trên xe máy điện nhãn hiệu Giant màu vàng cam, không có BKS tại trước cửa số nhà 09 phố Chợ Gạo – phường Hàng Buồm – quận Hoàn Kiếm – Hà Nội có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, N tự nguyện lấy trong túi xách đeo chéo trên người ra 01 túi ni lông kích thước 3x4cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, 02 túi ni lông kích thước 1x2cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, 01 túi ni lông kích thước 1x1cm bên trong chứa tinh thể màu trắng, N khai nhận là ma túy đá mang đi bán. Tổ công tác đã đưa N cùng tang vật về trụ sở công an phường Hàng Buồm làm việc.

Ngoài ra, còn thu giữ của Phạm Thị Bích N: 01 túi xách màu nâu logo Minmin kích thước 15x15x15cm đã qua sử dụng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen số Imei: 867760031753438/86776003153420 kèm 02 sim số thuêbao 0911947563 và 0978716564 và 01 ốp điện thoại màu vàng đen; 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Giant, màu vàng cam không BKS đã qua sử dụng.

Tại Kết luận giám định số 5636/KLGĐ-PC54 ngày 28/6/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 04 túi ni lông đều là ma túy loại Methamphetamine, có khối lượng 3,372 gam (BL: 34).

Tại cơ quan điều tra, Phạm Thị Bích N khai : Khoảng 13 giờ 00 ngày20/6/2018, N đang ở nhà tại số 02 ngách 82/28 phố Y – phường T – quận Đống Đa– Hà Nội thì Tr (là bạn xã hội của N) đến hỏi mua 1.000.000 đồng ma túy đá và hẹn N giao ma túy tại số 05 phố Chợ Gạo, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Sau đó, N nhắn tin qua mạng xã hội Facebook cho một nam thanh niên biệt danh là “Béo” (tên đăng nhập Facebook là Đây con bố) để hỏi mua ma túy đá, “Béo” hẹn đưa ma túy cho N tại 34 Trần Nhật Duật và cho số điện thoại 0941492034 để liên lạc. Đến khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, N gọi điện thoại cho “Béo” bảo lấy 2.000.000 đồng tiền ma túy đá và chia ma túy thành 04 túi ni lông trong đó 01 túi ni lông to chứa ma túy đá có giá 1.200.000 đồng và 03 túi ni lông nhỏ chứa ma túy đá có giá 800.000 đồng. Sau đó, N đi xe ôm từ nhà đến số 34 Trần Nhật Duật lấy 04 túi ni lông chứa ma túy đá, Nđưa cho “Béo” 1.200.000 đồng và nợ 800.000 đồng, hẹn khi bán được ma túy sẽ trả nốt. Khi N đi xe máy điện đến số 09 phố Chợ Gạo để bán cho Tr thì bị công an kiểm tra. N tự nguyện giao nộp 04 túi ni lông ma túy đá và bị đưa về trụ sở công an phường Hàng Buồm làm việc như đã nêu trên. Nếu không bị bắt, N bán 03 túi ma túy đá cho Tr với giá 1.000.000 đồng, được hưởng lời 200.000 đồng và giữ lại 01 túi ni lông kích thước 3x4 cm chứa ma túy đá để tìm khách bán lại với giá 1.500.000 đồng, hưởng lời 300.000 đồng. Ngoài ra, N còn khai đây là lần thứ babán ma túy cho Tr (không rõ địa chỉ, nhân thân). Trong khoảng thời gian từ ngày 10/6/2018 đến ngày 14/6/2018, N đã 02 lần mua ma túy “đá” của một người phụ nữ tên D tại khu vực phố Hồng Hà và bán ma túy “đá” cho Tr với giá 200.000 đồng tại khu vực chân cầu Chương Dương - phố Trần Nhật Duật, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, hưởng lời 50.000 đồng. Chiếc túi xách màu nâu logo Minmin và chiếc ốp điện thoại là tài sản cá nhân của N, không liên quan đến hành vi mua bán trái phép chất ma túy của N.Chiếc điện thoại Oppo kèm 02 sim số thuê bao 0911947563 và 0978716564, N sử dụng liên lạc với đối tượng “Béo” mua ma túy nên chuyển theo hồ sơ vụ án.

Đối với chiếc xe máy điện Giant không biển kiểm soát có số khung 653621306817158, số máy 1308CZ0180356, N khai mua của một người đàn ông không quen biết tại chợ xe chùa Hà với giá 4.000.000 đồng từ năm 2014 (không có giấy tờ mua bán) và sử dụng làm phương tiện đi lại hàng ngày. Cơ quan điều tra chưa xác minh được chủ sở hữu, không phải xe vật chứng, đã đăng công báo tìm chủ sở hữu và chuyển theo hồ sơ vụ án.

Về đối tượng “Béo”, đối tượng tên D bán ma túy cho Phạm Thị Bích N và đối tượng Tr mua ma túy do N khai không biết tên tuổi địa chỉ cụ thể, đã rút list điện thoại nhưng không xác định được nhân thân đối tượng nên Cơ quan điều tra khôngcó điều kiện xác minh, làm rõ để xử lý.

Bản cáo trạng số 211/CT-VKSHK ngày 10/10/2018 Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm truy tố Phạm Thị Bích N về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Phạm Thị Bích N đều khai nhận: do Tr là bạn xã hội hỏi mua ma túy đá, bị cáo đồng ý và hẹn giao ma túy cho Tr tại phố Chợ Gạo. Sau đó bị cáo hỏi mua 2.000.000đ ma túy đá của đối tượng “Béo” để bán lại cho Tr. Khi lấy được ma túy từ “Béo”, bị cáo mang đến chỗ hẹn để bán cho Tr thì bị công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Ngoài ra bị cáo N còn khai trước đây bị cáo đã hai lần bán ma túy cho Tr.

Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Phạm Thị Bích N về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 7 năm 6 tháng đến 8 năm tù.

Vật chứng:

Căn cứ điều 46; điểm a, b khoản 1Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều228 Bộ luật dân sự năm 2015. Tịch thu, tiêu hủy ma túy; 01 túi xách màu nâu logo Minmin. Tịch thu sung công 01 điện thoại di động Oppo màu đen; 01 ốp điện thoại màu vàng đen. Về chiếc xe máy điện nhãn hiệu Giant màu màu vàng cam, không biển kiểm soát hiện không xác định được chủ sở hữu, cho thông báo công khai trong thời hạn 1 năm. Nếu không xác định được chủ sở hữu thì cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét và trong quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn đề nghị cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi: Ngày 20/6/2018, khoảng 13 giờ bị cáo đang ở nhà thì có Tr là bạn xã hội đến hỏi mua 1.000.000đ ma túy đá, bị cáo đồng ý và hẹn giao ma túy cho Tr tại phố Chợ Gạo. Sau đó bị cáo nhắn tin cho đối tượng có biệt danh là “Béo” qua mạng xã hội Facebook để mua ma túy đá. Đến khoảng 15h 20’ bị cáo gọi điện thoại cho đối tượng “Béo” nói sẽ lấy 2.000.000đ ma túy và nhờ “Béo” chia thành 4 gói trong đó có 1 gói to và 3 gói nhỏ. Sau khi lấy được ma túy từ “Béo”, bị cáo mang đến chỗ hẹn để bán cho Tr thì bị công an kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Nếu bán trót lọt ma túy cho Tr bị cáo sẽ được hưởng lợi 200.000đ.

Ngoài ra bị cáo N còn khai khoảng thời gian từ 10/6/2018 đến 14/6/2018 bị cáo đã hai lần mua ma túy của một phụ nữ tên là D không biết địa chỉ tại khu vực phố Hồng Hà và bán lại cho Tr tại khu vực chân cầu Chương Dương - Trần Nhật Duật, Hoàn Kiếm, Hà Nội. Căn cứ vào các lời khai của bị cáo có đủ cơ sở để kết luận bị cáo đã nhiều lần mua bán ma túy.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ hành vi bán ma túy của mình bị pháp luật nghiêm cấm nhưng do hám lợi bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi. Hành vi của bị cáo Phạm Thị Bích N đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” - theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải và tự thú 2 hành vi phạm tội đã thực hiện. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về nhân thân: bị cáo có một tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này xác định là tái phạm.

Hội đồng xét xử căn cứ tính chất hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo; căn cứ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; do vậy, cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung nhưng có thể cho bị cáo hưởng mức án dưới khung hình phạt. Ngoài hình phạt chính, bị cáo không bị áp dụng hình phạt bổ sung vì không có nghề nghiệp ổn định.

Biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy ma túy; 01 túi xách màu nâu. Tịch thu sung công 01 điện thoại di động Oppo màu đen bị cáo dùng liên lạc mua bán ma túy; 01 ốp điện thoại màu vàng đen đã cũ. Về chiếc xe máy điện nhãn hiệu Giant màu vàng cam không có BKS thu giữ của bị cáo hiện không xác định được chủ sở hữu, cho thông báo công khai trong thời hạn 1 năm. Nếu không xác định được chủ sở hữu thì cho tịch thu, sung quỹ Nhà nước.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Phạm Thị Bích N phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng: điểm b khoản 2 Điều 251; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 (tái phạm); khoản 1 điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Phạm Thị Bích N 06 ( sáu ) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/6/2018.

3. Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 228 Bộ luật dân sự. a. Tịch thu, tiêu huỷ:

- Một phong bì đã niêm phong bên trong có bốn túi nilon chứa ma túy Methamphetamine có trọng lượng 3,372 gam đã lấy mẫu để giám định 0,189 gam còn lại 3,183 gam;

- Một túi xách màu nâu logo Minmin kích thước 15x15x15cm đã qua sử dụng;

- Hai sim điện thoại đã cũ.

b. Tịch thu sung công :

- Một điện thoại di động Oppo màu đen có vỏ ốp màu vàng đen đã qua sử dụng;

c. Đối với chiếc xe máy điện nhãn hiệu Giant màu vàng cam không biển kiểmsoát giải quyết như sau: Sau thời hạn một năm kể từ ngày Chi cục thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm thông báo công khai mà không có chủ sở hữu nhận thì sung quỹ Nhà nước.

 (Theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 29/10/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàn Kiếm).

4. Án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2018/HSST ngày 30/10/2018 về tội mua bán trái phép chất ma tuý

Số hiệu:203/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về