Bản án 203/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 203/2018/HS-ST NGÀY 15/11/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 11 năm 2018 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 204/2018/TLST-HS ngày 23 tháng 10 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 215/2018/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 11 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Tuấn H, tên gọi khác: Không có, sinh ngày 27 tháng 02 năm 1986 tại Lạng Sơn. Nơi đăng ký hộ khẩu và chỗ ở: Đường V, phường C, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Mạnh T, sinh năm 1958 và con bà Hà Thị L, sinh năm 1958; vợ Hoàng Thị Nha T, sinh năm 1986 (đã ly thân); con: Có 01 con sinh năm 2012; tiền sự: Không; tiền án: Có 03 tiền án: Tại bản án số 51/2005/HS-PT ngày 02/11/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã xét xử bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, tuyên phạt 09 tháng tù; đã chấp hành xong và đã được xóa án tích. Tại bản án số 51/2008/HSST ngày 11/6/2008 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đã xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tuyên phạt 42 tháng tù; đã chấp hành xong và đã được xóa án tích. Tại bản án số 165/2016/HSST ngày 20/12/2016 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn đã xét xử bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tuyên phạt 09 tháng tù; đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/5/2017, đến nay chưa được xóa án tích. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 6/8/2018 đến nay. Có mặt.

Người bị hại:

- Anh Mông Văn L, sinh năm 1977. Địa chỉ: Đường L, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt (có đơn xin vắng);

- Anh Lâm Văn B, sinh năm 1989. Địa chỉ: Thôn Q, xã Q, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

- Anh Hoàng A, sinh năm 1987. Địa chỉ: Thôn P, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt (có đơn xin vắng mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Lâm Văn T, sinh năm 1971. Địa chỉ: Đường N, phường V, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt (có đơn xin vắng mặt);

- Anh Hứa Hoàng L, sinh năm 1976. Địa chỉ: Đường N, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt;

- Anh Hà Thế A, sinh năm 1993. Địa chỉ: Đường N, phường T, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt;

- Chị Hoàng Thị Diệu M, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn N, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội. Vắng mặt (có đơn xin vắng mặt);

- Anh Vũ Duy H, sinh năm 1985. Địa chỉ: Đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn.Vắng mặt;

- Chị Tô Thị Thu T, sinh năm 1994. Địa chỉ: Đường B, phường H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt; Người làm chứng:

- Anh Hoàng Trung D, sinh năm 1986. Địa chỉ: Đường N, thôn B, xã H, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt;

- Anh Đỗ Trọng H, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ngõ 1, đường Lương Văn Tri, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt;

- Cháu Lâm Thị Thu H, sinh năm 2009. Người đại diện hợp pháp của cháu H: Ông Lâm Văn S; địa chỉ: Thôn Q, xã Q, thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2018, Nguyễn Tuấn H đã lợi dụng quen biết với các chủ tài sản rồi nhiều lần mượn xe mô tô và xe máy điện để chiếm đoạt tài sản của họ mang đi bán và cầm cố lấy tiền chi tiêu cá nhân, cụ thể:

Lần thứ nhất: Sáng ngày 27/6/2018, Nguyễn Tuấn H đến chơi tại nhà anh Mông Văn L, sinh năm 1977, trú tại đường L, phường V, thành phố L. Khoảng 21 giờ ngày 27/6/2018, Nguyễn Tuấn H rủ anh Mông Văn L sang nhà anh Đỗ Trọng H, sinh năm 1987, trú tại đường L, phường H, thành phố L (Đỗ Trọng H là bạn của Nguyễn Tuấn H). Nguyễn Tuấn H điều khiển xe máy điện của anh Mông Văn L, nhãn hiệu HKBIKE màu sơn trắng - đen, BKS: 12MĐ1- 020.72 chở anh Mông Văn L đến nhà anh Đỗ Trọng H. Khi đến cửa nhà anh Đỗ Trọng H, Nguyễn Tuấn H bảo anh Mông Văn L vào nhà trước để Nguyễn Tuấn H đi mua thuốc lá. Sau đó, Nguyễn Tuấn H điều khiển xe máy điện ra quán nước ở đường B mua thuốc lá rồi vào chơi điện tử (game bắn cá trên mạng internet) tại địa chỉ đường B, phường H, thành phố L. Khoảng 11 giờ ngày 28/6/2018, khi hết tiền chơi điện tử, Nguyễn Tuấn H điều khiển xe máy điện này đến nhà chị Tô Thị Thu T, sinh năm 1994, trú tại đường B, phường H, thành phố L (chị Tô Thị Thu T có quan hệ họ hàng với Nguyễn Tuấn H) và bán cho chị Tô Thị Thu T chiếc xe máy điện giá 4.000.000đ (bốn triệu đồng). Ngày 04/8/2018, chị Tô Thị Thu T mang xe máy điện đến cửa hàng sửa chữa xe máy địa chỉ đường B, phường H, thành phố L bán cho anh Vũ Duy H, có HKTT: thôn Đ, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định (chủ cửa hàng) với giá 4.200.000đ (bốn triệu hai trăm nghìn đồng). Khoảng cuối tháng 8/2018, anh Vũ Duy H đã bán chiếc xe máy điện trên cho một người đàn ông không rõ địa chỉ với số tiền 5.100.000đ (năm triệu một trăm nghìn đồng). Số tiền có được sau khi bán xe máy điện cho chị Tô Thị Thu T, Nguyễn Tuấn H đã dùng chơi điện tử và chi tiêu cá nhân hết, anh Mông Văn L không thấy Nguyễn Tuấn H mang xe về trả đã nhiều lần gọi điện nhưng Nguyễn Tuấn H không nghe máy, đến nhà thì không gặp. Ngày 18/8/2018, anh Mông Văn L gửi đơn đến Công an thành phố Lạng Sơn tố giác về hành vi của Nguyễn Tuấn H.

Lần thứ hai: Khoảng 08 giờ ngày 05/7/2018, Nguyễn Tuấn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh, BKS: 12F4 - 8261 của bà Hà Thị L (là mẹ đẻ), sinh năm 1958, trú tại đường V, phường C, thành phố L đến nhà anh Lâm Văn B, sinh năm 1989, tại thôn Q, xã Q, thành phố L để đốt chấu. Khi đến nơi, Nguyễn Tuấn H thấy xe mô tô của mình gần hết xăng nên vào nhà anh Lâm Văn B với mục đích mượn xe mô tô của anh Lâm Văn B đi mua xăng để đổ vào xe mô tô của mình. Nguyễn Tuấn H vào nhà anh Lâm Văn B thấy có hai cháu Lâm Chấn P, sinh năm 2017 và Lâm Thị Thu H, sinh năm 2009 (Lâm Chấn P là con trai và Lâm Thị Thu H là cháu ruột anh Lâm Văn B) đang chơi trong nhà anh Lâm Văn B, thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ - đen, BKS: 12P1-141.79 đang dựng trong nhà, trên ổ khóa xe mô tô còn cắm chìa khóa, Nguyễn Tuấn H đi vào trong phòng ngủ hỏi mượn xe thì thấy anh Lâm Văn B đang ngủ, Nguyễn Tuấn H đi ra phòng khách dắt xe mô tô của anh Lâm Văn B ra ngoài rồi dắt xe mô tô của mình vào trong nhà anh Lâm Văn B để, rồi viết vào tờ giấy với nội dung "anh H con bà L mượn xe đi mua xăng" và ghi số điện thoại của mình đưa cho cháu Lâm Thị Thu H và nói "khi nào chú B dậy thì đưa cho chú B". Sau đó, Nguyễn Tuấn H điều khiển xe đến đoạn đường T, phường C, thành phố L thì dừng xe, mở cốp xe mô tô ra thấy có đăng ký xe mô tô BKS: 12P1-141.79 và các giấy tờ cá nhân của anh Lâm Văn B, lúc này Nguyễn Tuấn H nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Lâm Văn B. Nguyễn Tuấn H điều khiển xe mô tô BKS: 12P1-141.79 đến cửa hàng mua bán xe máy cũ, địa chỉ đường N, phường V, thành phố L bán cho chủ cửa hàng là anh Lâm Văn T, sinh năm 1971 với giá 12.000.000đ (mười hai triệu đồng). Ngày 26/7/2018, anh Lâm Văn T bán chiếc xe mô tô trên cho một người đàn ông không rõ địa chỉ với giá 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng). Sau khi bán xe mô tô, Nguyễn Tuấn H dùng tiền vào chơi điện tử và chi tiêu cá nhân hết, anh Lâm Văn B nhiều lần gọi điện cho Nguyễn Tuấn H để yêu cầu trả xe nhưng Nguyễn Tuấn H tắt máy, đến nhà thì không gặp Nguyễn Tuấn H. Ngày 06/7/2018, anh Lâm Văn B gửi đơn đến Công an thành phố Lạng Sơn tố giác Nguyễn Tuấn H có hành vi chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh Lâm Văn B.

Lần thứ ba: Khoảng 23 giờ ngày 14/7/2018, Nguyễn Tuấn H đến nhà anh Hoàng Trung D, sinh năm 1986, trú tại đường N, xã H, thành phố L đang ngồi uống rượu và xem bóng đá, Nguyễn Tuấn H vào ngồi uống rượu cùng anh Hoàng Trung D và anh Hoàng A. Khoảng 02 giờ ngày 15/7/2018, Nguyễn Tuấn H hỏi mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu sơn đen - bạc BKS: 12K2 - 4789 của anh Hoàng A để đi mua thuốc lá, anh Hoàng A đưa chìa khóa xe mô tô cho Nguyễn Tuấn H. Nguyễn Tuấn H điều khiển xe mô tô đi đến quán Internet địa chỉ đường B, phường H, thành phố Lđể chơi điện tử. Khoảng 6 giờ cùng ngày, sau khi chơi điện tử hết tiền, Nguyễn Tuấn H nói với Hứa Hoàng L (là người chơi điện tử tại quán internet cùng với Nguyễn Tuấn H), sinh năm 1976, trú tại đường N, phường H, thành phố L có biết chỗ nào cầm cố xe thì cầm cố hộ, Hứa Hoàng L gọi điện cho Hà Thế A, sinh năm 1993, trú tại N, phường T, thành phố L hỏi vay tiền và đặt xe mô tô mấy ngày sau trả tiền lấy lại xe thì Hà Thế A nói mang xe đến nhà nghỉ N, đường N, phường V, thành phố L để Hà Thế A xem. Nguyễn Tuấn H điều khiển xe mô tô BKS: 12K2 - 4789 chở Hứa Hoàng L đến nhà nghỉ N thì Hà Thế A nói để xe lại về đi lúc nữa em rút tiền mang đến cho. Khoảng 08 giờ cùng ngày, Hà Thế A đến quán internet đường B, phường H đưa cho Hứa Hoàng L 1.600.000 đồng (một triệu sáu trăm nghìn đồng). Sau đó, Hứa Hoàng L đưa cho Nguyễn Tuấn H 1.200.000 đồng (một triệu hai trăm nghìn đồng), Hứa Hoàng L giữ lại 400.000 đồng là tiền trước đó Nguyễn Tuấn H vay của Hứa Hoàng L. Anh Hoàng A không thấy Nguyễn Tuấn H mang xe về trả đã nhiều lần gọi điện thì Nguyễn Tuấn H tắt máy, đến nhà thì không gặp. Ngày 16/7/2018, anh Hoàng A gửi đơn đến Công an thành phố Lạng Sơn tố giác về hành vi của Nguyễn Tuấn H.

Ngày 06/8/2018 Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã tiến hành bắt bị can để tạm giam và khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Tuấn H.

Theo Biên bản định giá số 117 và 118 ngày 20/7/2018 và Biên bản số 158 ngày 10/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn tài sản có giá trị như sau:

- 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu HKBIKE, màu sơn trắng - đen, BKS: 12MĐ1 - 020.72 của anh Mông Văn L. Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn xác định chiếc xe máy điện có giá trị 8.800.00 đồng (tám triệu tám trăm nghìn đồng);

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha - Jupiter, màu sơn đỏ - đen, BKS 12P1 - 141.79 của anh Lâm Văn B. Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn xác định chiếc xe mô tô có giá trị 24.800.00đ (hai mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng);

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha - Jupiter, màu sơn đen - bạc, BKS 12K2 - 4789 của anh Hoàng A. Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn xác định chiếc xe mô tô có giá trị 4.400.000 đồng (bốn triệu bốn trăm nghìn đồng).

Tại bản cáo trạng số: 199/CT-VKS ngày 23/10/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn H khai nhận: Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2018 đến tháng 7/2018, Nguyễn Tuấn H lợi dụng quen biết với anh Mông Văn L, Lâm Văn B, Hoàng A đã mượn xe mô tô và xe máy điện của những người này để chiếm đoạt tài sản của của họ rồi mang đi bán và cầm cố lấy tiền chi tiêu cá nhân. Tổng giá trị tài sản các lần chiếm đoạt theo giá của Hội đồng định giá tài sản Tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn bị cáo Nguyễn Tuấn H đã thực hiện là 38.000.000 đồng (ba mươi tám triệu đồng).

Người bị hại trong vụ án: Anh Mông Văn L đề nghị bị cáo bồi thường cho anh giá trị chiếc xe máy điện BKS: 12MĐ1 - 020.72 mới mua với số tiền 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng).

Tại phiên tòa anh Lâm Văn B trình bày: Ngày 5/7/2018, Nguyễn Tuấn H đến nhà anh, lúc đó anh đang ngủ, chỉ cháu Lâm Chấn P và cháu Lâm Thị Thu H đang chơi ở nhà thì Nguyễn Tuấn H đã lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ - đen, BKS: 12P1-141.79 đang dựng trong nhà, trên ổ khóa xe mô tô còn cắm chìa khóa và đưa cho cháu Lâm Thị Thu H một tờ giấy ghi số điện thoại. Sau đó anh gọi nhiều lần nhưng không liên lạc được, Nguyễn Tuấn H cũng không mang xe về trả, chiếc xe trên cơ quan điều tra không thu hồi được. Nay anh yêu cầu bị cáo Nguyễn Tuấn H phải bồi thường cho anh chiếc xe mô tô BKS: 12P1 - 141.79 bị chiếm đoạt chiếc xe theo giá trị Hội đồng định giá là 24.800.000 đồng (hai mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng).

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn H nhất trí bồi thường theo đề nghị của người bị hại anh Mông Văn L và anh Lâm Văn B.

Đối với anh Hoàng A, cơ quan điều tra đã xác minh chủ sở hữu hợp pháp đối với chiếc xe mô tô BKS: 12K2 – 4789 là chị Hoàng Thị Diệu M (chị gái của Hoàng A), sinh năm 1985, trú tại thôn N, xã L, huyện T, thành phố Hà Nội nên đã trả lại cho chị, chị không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại cơ quan điều tra anh Mông Quốc Anh H trình bày: Chiếc xe máy điện BKS: 12MĐ1-020.72 đăng ký mang tên tôi là do bố tôi ông Mông Văn L, sinh năm 1977 mua cho tôi sử dụng từ tháng 12/2017. Khoảng cuối tháng 6/2018, có chú Nguyễn Tuấn H quen biết chơi cùng bố tôi có rủ bố tôi đi chơi và bố tôi lấy chiếc xe máy điện BKS: 12MĐ1-020.72 của tôi đi. Đến sáng hôm sau, bố tôi về nhà và nói là chú Nguyễn Tuấn H lấy xe đi nhưng không thấy mang trả. Sau đó, đến tháng 8/2018, tôi có nghe bố tôi nói là chú H đang bị tạm giữ ở Công an thành phố nên bố có viết đơn trình báo cơ quan Công an.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lâm Văn T trình bày: Ngày 5/7/2018, Nguyễn Tuấn H đi chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha - Jupiter, màu sơn đỏ - đen, BKS 12P1 - 141.79 đến gặp anh và nói muốn bán xe. Do không biết chiếc xe mô tô trên do Nguyễn Tuấn H chiếm đoạt được mà có nên anh đã mua lại với giá 12.000.000 đồng (mười hai triệu đồng). Sau đó, đến ngày 26/7/2018 anh đã bán lại chiếc xe trên cho một nam thanh niên không quen biết, anh có viết giấy mua bán xe và giao giấy tờ mua bán cho nam thanh niên đã mua xe. Ngoài ra anh không biết và không liên quan gì.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hứa Hoàng L trình bày: Ngày 15/7/2018, tôi gặp Nguyễn Tuấn H ở quán internet đường B, phường H, thành phố L, tôi không biết chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 - 4789 là do Nguyễn Tuấn H chiếm đoạt của người khác mà có. Tôi đã gọi điện cho anh Hà Thế A và cùng Nguyễn Tuấn H đi chiếc xe mô tô trên đến gặp anh Hà Thế A để Nguyễn Tuấn H cắm xe vay tiền, ngoài ra tôi không biết gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Hà Thế A trình bày: Ngày 15/7/2018, anh Hứa Hoàng L gọi điện cho anh và mang chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 – 4789 đến gặp anh và bảo anh Nguyễn Tuấn H cần tiền nên đứng ra mượn tiền cho. Vì quen biết anh Hứa Hoàng L và không biết chiếc xe trên do anh Nguyễn Tuấn H chiếm đoạt của người khác mà có nên đã cho anh Nguyễn Tuấn H vay tiền và đặt xe lại làm tin. Sau khi biết sự việc phạm tội của Nguyễn Tuấn H, anh đã giao nộp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 - 4789 cho Cơ quan điều tra để phục vụ công tác điều tra. Anh không có yêu cầu bồi thường hay đề nghị gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị Diệu M trình bày:

Năm 2007, chị có mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 – 4789 với giá 24.000.000 đồng, đăng ký xe mang tên chị. Đến năm 2014, chị lấy chồng và sinh sống tại huyện T, thành phố Hà Nội nên có để lại chiếc xe mô tô trên ở nhà cho em trai tên là Hoàng A sử dụng. Đến khoảng giữa tháng 7/2018, chị có nghe em trai nói cho bạn mượn xe rồi bị chiếm đoạt. Chị và Hoàng A có lên cơ quan công an trình báo sự việc. Cơ quan công an đã thu hồi và trả lại xe cho chị, chị đã nhận lại xe còn nguyên vẹn, không bị hỏng hóc gì và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Quá trình điều tra chị Tô Thị Thu T trình bày: Ngày 27/6/2018, Nguyễn Tuấn H điểu khiển chiếc xe máy điện mang nhãn hiệu HKBIKE màu trắng - đen, không gắn biển kiểm soát đến nhà chị bảo muốn bán lại, do không đủ tiền nên hẹn hôm sau lấy. Ngày 28/6/2018, chị mua lại chiếc xe trên với Nguyễn Tuấn H giá 4.000.000 đồng, không viết giấy tờ mua bán gì. Chị sử dụng chiếc xe trên đến đầu tháng 8/2018, do cần tiền nên mang bán chiếc xe trên cho anh Vũ Duy H - chủ cửa hàng sửa chữa xe máy gần nhà với giá 4.200.000 đồng, không viết giấy tờ mua bán gì. Đến ngày 03/9/2018, khi có cán bộ công an hỏi về chiếc xe trên chị mới biết chiếc xe là do Nguyễn Tuấn H chiếm đoạt của người khác bán cho chị. Ngoài ra chị không biết gì thêm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ Duy H trình bày: Ngày 4/8/2018, chị Tô Thị Thu T có điều khiển chiếc xe máy điện màu trắng - đen (không nhớ nhãn hiệu) đến gặp anh và bảo cần tiền nên muốn bán xe, anh có hỏi giấy tờ xe như nào vì không thấy xe gắn biển kiểm soát thì chị Trang bảo xeđang đi đăng ký, khi nào được thì mang đến bổ sung sau nên anh đã mua lại xe với giá 4.200.000 đồng, không viết giấy tờ mua bán gì. Khoảng 20 ngày sau, anh bán lại chiếc xe trên cho người đàn ông (không rõ rõ tên, địa chỉ) với giá 5.100.000 đồng và không viết giấy tờ mua bán gì. Đến ngày 18/9/2018, cơ quan công an yêu cầu anh lên làm việc thì anh mới biết chiếc xe trên là tang vật của vụ án, ngoài ra không biết gì thêm.

Người làm chứng anh Hoàng Trung D trình bày: Ngày 15/7/2018, Nguyễn Tuấn H và Hoàng A có xem đá bóng tại nhà anh (địa chỉ: đường N, thôn B, xã H, thành phố L). Khoảng 2 giờ 30 phút cùng ngày, Nguyễn Tuấn H nói với Hoàng A cho mượn xe một lúc thì Hoàng A đồng ý và đưa chìa khóa cho Nguyễn Tuấn H. Khoảng 1 tiếng sau, Hoàng A gọi điện cho Nguyễn Tuấn H bảo mang xe về thì Nguyễn Tuấn H nói đang ngồi nhà bạn. Sau đó, Hoàng A gọi nhiều lần thì Nguyễn Tuấn H tắt máy. Đến chiều cùng ngày, không thấy Nguyễn Tuấn H về nên anh cùng Hoàng A lên công an trình báo.

Người làm chứng anh Đỗ Trọng H trình bày: Ngày 27/6/2018, tôi đang ở nhà thì thấy anh L (anh không rõ họ tên, tuổi, địa chỉ) đi vào nhà anh, anh L bảo "H bảo anh vào nhà tôi ngồi uống nước, đợi H đi có việc một lúc rồi về", Hoàn điều khiển xe của anh L đi. Đợi đến khoảng 03 giờ ngày 28/6/2018 thì anh L đi về, sau đó đến khoảng cuối tháng 8/2018 anh L đến nhà anh kể trước đó bị Hcó mượn chiếc xe máy điện của anh L đi có việc nhưng không mang về trả, ngoài ra anh không biết gì thêm.

Đại diện hợp pháp của người làm chứng cháu Lâm Thị Thu H là ông Lâm Văn S trình bày: Ngày 5/7/2018, bị cáo Nguyễn Tuấn H đến nhà Lâm Văn B (là em rột của tôi), lúc đó chỉ cháu Lâm Chấn Pvà cháu Lâm Thị Thu H là con anh đang chơi ở nhà chú B. Nguyễn Tuấn H đã lấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đỏ - đen, BKS: 12P1-141.79 của chú Lâm Văn B đang dựng trong nhà, lúc đó cháu Lâm Thị Thu H không đồng ý nhưng Nguyễn Tuấn H vẫn lấy xe đi, sau đó thì không đem về trả, sau đó Lâm Văn B đã trình báo Công an để giải quyết.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn H từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có điều kiện thi hành.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự: Bị cáo Nguyễn Tuấn H có trách nhiệm bồi thường cho anh Mông Văn L số tiền 13.000.000 đồng (mười ba nghìn đồng) và bồi thường cho anh Lâm Văn B số tiền 24.800.000 (hai mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng).

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 - 4789 là chị Hoàng Thị Diệu M, sinh năm 1985 (là chị gái của Hoàng A). Ngày 02/10/2018 chị Hoàng Thị Diệu M đã được Cơ quan điều tra trả lại tài sản là chiếc xe mô tô trên, chị không yêu cầu bồi thường nên đề nghị Hội đồng xét xửchỉ cần xác nhận;

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn. Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Lạng Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như cáo trạng truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với biên bản bắt bị can để tạm giam; biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số 117 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn giá trị chiếc xe mô tô Yamaha Jupiter, BKS: 12P1 - 141.79 có giá trị 24.800.000 đồng; biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số 118 ngày 20/7/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn giá trị chiếc xe mô tô Yamaha Jupiter, BKS: 12K2 – 4789 có giá trị 4.400.000 đồng; biên bản định giá tài sản tố tụng hình sự số 158 ngày 10/9/2018 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn giá trị chiếc xe xe máy điện HKBIKE, BKS: 12MĐ1 - 020.72 có giá trị 8.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản các lần chiếm đoạt mà bị cáo đã thực hiện là 38.000.000 đồng; lời khai đó phù hợp với các lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

[3] Xét thấy, bị cáo có mục đích chiếm đoạt tài sản, có thủ đoạn gian dối để tạo niềm tin với người bị hại để chiếm đoạt tài sản, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt được của anh Lâm Văn B, anh Mông Văn L, Hoàng A tổng cộng là 38.000.000 đồng. Vì vậy, có đủ căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội " Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 175 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn H là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, đã có 03 tiền án; 01 tiền án chưa được xóa, lần phạm tội này là tái phạm. Bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện phạm tội nhiều lần, vì vậy hành vi của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật để răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Ngoài việc đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nêu trên còn phải xem xét những yếu tố liên quan đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các yếu tố khác có liên quan của bị cáo, trên cơ sở xem xét lời đề nghị, luận tội của Viện kiểm sát;

[6] Về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan Điều tra và tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn H thành khẩn khai báo, trong gia đình có bố đẻ là thương binh hạng 3/4 nên bị cáo có tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo 03 lần thực hiện hành vi phạm tội, có 03 tiền án trong đó 01 tiền án đến nay chưa được xóa án tích. Do đó, bị cáo có 02 tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Từ những phân tích như trên Hội đồng xét xử thấy rằng cần xử bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền vì bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng để thi hành.

[8] Đối với bồi thường dân sự:

[8.1] Anh Hà Thế A sau khi biết sự việc phạm tội của Nguyễn Tuấn H đã tự nguyện giao nộp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 - 4789 cho Cơ quan điều tra, không yêu cầu bồi thường hay đề nghị gì. Quá trình điều tra đã xác định chủ sở hữu hợp pháp của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter BKS: 12K2 - 4789 là chị Hoàng Thị Diệu M, sinh năm 1985 (chị Mến là chị gái của Hoàng A), ngày 02/10/2018 chị Hoàng Thị Diệu M đã được Cơ quan điều tra trả lại tài sản là chiếc xe mô tô trên.

[8.2] Cơ quan điều tra vẫn chưa truy tìm được chiếc xe máy điện BKS: 12MĐ1- 020.72 và chiếc xe mô tô BKS: 12P1-141.79. Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố Lạng Sơn đã xác định chiếc xe máy điện có giá trị 8.800.00 đồng (tám triệu tám trăm nghìn đồng) và chiếc xe mô tô có giá trị 24.800.00đ (hai mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng). Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Tuấn H nhận trách nhiệm bồi thường cho anh Lâm Văn B số tiền 24.800.000 (hai mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng) và tự nguyện bồi thường với giá trị tài sản theo giá người bị hại anh anh Mông Văn L chiếc xe đạp điện với giá 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng).

[9] Về xử lý vật chứng: Ngày 02/10/2018 chị Hoàng Thị Diệu M đã được Cơ quan điều tra trả lại tài sản là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen - bạc, BKS: 12K2 – 4789, chị Hoàng Thị Diệu M không yêu cầu bồi thường hay đề nghị gì thêm nên Hội đồng xét xử chỉ cần xác nhận.

[10] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự có giá ngạch theo quy định của pháp luật tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Áp dụng các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật dân sự;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn H 02 (hai) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 06/8/2018.

3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại dân sự: Bị cáo Nguyễn Tuấn H có trách nhiệm bồi thường cho anh Mông Văn L số tiền 13.000.000đ (mười ba triệu đồng) và bồi thường cho anh Lâm Văn B số tiền 24.800.000đ (hai mươi tư triệu tám trăm nghìn đồng).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, bên được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành, nếu bên phải thi hành chậm trả thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Dân sự. Lãi suất phát sinh do chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật Dân sự; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

4. Về xử lý vật chứng: Xác nhận ngày 02/10/2018 chị Hoàng Thị Diệu M đã được Cơ quan điều tra trả lại tài sản là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu đen - bạc, BKS: 12K2 - 4789.

5. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tuấn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm và 1.890.000 đồng (một triệu tám trăm chin mươi nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch; tổng cộng là 2.090.000 đồng (hai triệu không trăm chín mươi nghìn đồng) để sung ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:203/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:15/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về