Bản án 203/2018/HSPT ngày 15/05/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 203/2018/HSPT NGÀY 15/5/2018 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 129/HSPT ngày 08/3/2018 đối với bị cáo Lê Trúc S do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2018/HSST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Trúc S; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1988, tại tỉnh Ninh Thuận; Thường trú: Thôn Hộ Diêm, xã A, huyện B, tỉnh Ninh Thuận; Chỗ ở: 42/4 tổ 18, khu phố 2, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Trúc H và bà Nguyễn Thị T (chết); Hoàn cảnh gia đình: có vợ Trần Thị Kim Q và 03 con (con nhỏ nhất sinh năm 2017, con lớn nhất sinh năm: 2012); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn Thái, Lê Trúc S, Lê Minh Vương là công nhân của công ty dệt may Thành Công, số 36 đường Tây Thạnh, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú. Ngày 22/7/2016, anh Vương để quên chùm chìa khóa trên bàn đóng nút của công ty, Thái lấy và bàn với S trộm xe máy hiệu honda loại Airblade, biển số: 59X2-368.55 của Vương, S đồng ý. Khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 31/7/2016 Lê Thanh Luân đi nhà thờ thì gặp S tại phòng trọ của S số 42/4 tổ 18, khu phố 2, phường Tân Thới Nhất, Quận 12, Luân hỏi S có xe gắn máy nào không giấy tờ (xe do trộm cắp mà có) bán không, S nói có xe Airblade, hai bên cho nhau số điện thoại để liên lạc.

Ngày 01/8/2016 Luân ghé phòng trọ của S hỏi về chiếc xe Airblade để mua và Luân điện thoại cho Lê Thị Hồng Sen là chị của Luân rồi đưa máy cho S trao đổi giá cả mua bán xe với Sen là 10.500.000 đồng. Ngày 02/8/2016 Thái nhặt được 01 thẻ giữ xe ở chân cầu thang lên lầu 1 của xưởng may số 3 nên kêu S hẹn Luân 16 giờ 45 phút cùng ngày đến cổng sau của công ty dệt may Thành Công để lấy xe. Đúng hẹn Luân đến đưa cho S 10.500.000 đồng, khoảng 17 giờ cùng ngày Thái mặc áo mưa, đeo khẩu và lợi dụng lúc này trời mưa bảo vệ giữ xe không kiểm soát kỹ thẻ giữ xe (thẻ giữ xe do Thái nhặt được không phải thẻ giữ xe gắn máy biển số: 59X2- 368.55) Thái lấy xe máy biển số: 59X2-368.55 của anh Vương chạy đến điểm hẹn đưa cho Luân rồi Thái, S vào công ty làm việc tiếp. Sau đó S nói với Thái bán xe được 8.000.000 đồng và đưa cho Thái 4.000.000 đồng, S hưởng 6.500.000 đồng. Còn Luân chạy xe máy biển số 59X2-368.55 về giao lại cho Sen tại nhà không số, kế nhà số A2/12, ấp 1, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh. Sen lấy xe chạy thử thì S điện thoại kêu Luân tháo biển số xe bỏ đi vì để Công an phát hiện sẽ bị bắt, lúc này Sen vừa chạy xe về thì Luân đưa điện thoại cho Sen nói chuyện với S về việc tháo bỏ biển số xe. Luân tháo biển số 59X2-368.55 ném xuống sông ở khu vực cầu Bình Điền, còn xe máy thì Sen, Luân mang qua nhà kho số 7/20A, ấp 3, xã Tân Quý Tây, huyện Bình Chánh giấu. Ngày 04/8/2016 anh Vương đến Công an phường Tây Thạnh trình báo. Qua truy xét Cơ quan điều tra đưa Nguyễn Văn Thái, Lê Trúc S, Lê Thanh Luân, Lê Thị Hồng Sen về làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Thái, Lê Trúc S, Lê Thanh Luân, Lê Thị Hồng Sen đã khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2018/HSST ngày 31/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Trúc S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự 1999:

Xử phạt: Lê Trúc S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên bị cáo Nguyễn Văn Thái phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, các bị cáo Lê Thanh Luân và Lê Thị Hồng Sen phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và giải quyết về vật chứng, án phí, trách nhiệm dân sự và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/02/2018 bị cáo Lê Trúc S có đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo S giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng bị cáo Lê Trúc S bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 01 (một) năm tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Lê Trúc S có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Xét thấy, bị cáo Lê Trúc S có hành vi gian dối chiếm đoạt chiếc xe gắn máy, hiệu Honda, loại Airblade, biển số: 59X2-368.55 có giá trị 30.000.000 đồng của anh Lê Minh Vương. Khi xét xử, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mức hình phạt 01 (một) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo là thỏa đáng, không nặng. Bị cáo kháng cáo xin được giảm án, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để có thể xem xét giảm nhẹ hơn nữa hình phạt cho bị cáo.

Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trúc S mà giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Lê Trúc S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt bị cáo Lê Trúc S 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Trúc S khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cho bị cáo được giảm thời gian chấp hành hình phạt tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Tân Phú, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân quận Tân Phú, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị cáo Lê Trúc S có hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng Điều 139 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo 01 (một) năm tù.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/02/2018 bị cáo Lê Trúc S có đơn kháng cáo. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm nhận thấy:

Bị cáo Lê Trúc S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tài sản chiếm đoạt có giá trị 30.000.000 đồng. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 139 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo S 01 (một) năm tù.

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy: Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Trúc S không xuất trình thêm tình tiết nào mới để Hội đồng xét xử có căn cứ xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc giữ nguyên mức hình phạt 01 (một) năm tù đối với bị cáo S là phù hợp.

Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trúc S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo Lê Trúc S phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Trúc S; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Lê Trúc S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 139; điểm b, g, h, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Xử phạt: Lê Trúc S 01 (một) năm tù. Thời hạn từ tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 203/2018/HSPT ngày 15/05/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:203/2018/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về