TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 202/2020/HS-ST NGÀY 25/05/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Hôm nay, ngày 25 tháng 5 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 179/2020/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 208/2020/QĐXXST-HS ngày 5 tháng 05 năm 2020 đôi vơi bi cáo: Nguyễn H- sinh ngày 05/7/1963, tại Thái Nguyên;
Nơi thường trú: tổ n (nay là tổ m), phường HVT, TPTN, Chỗ ở: tổ u, phường QT, TPTN; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 10/10; dân tộc: Kinh; Con ông: Nguyễn Thu L, sinh năm 1929 và bà: Phạm Thị H, sinh năm 1932, gia đình bị cáo có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 04; Vợ: Lê Thị T (đã chết), có 01 con chung sinh năm 1989; tiền sự: không;
Tiền án: 01-Tại Bản án số 546/2019/HSST ngày 21/10/2019 Tòa án nhân dân TPTN xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Nhân thân: 04 - Tại Bản án số 69/HSST ngày 27/5/1985 Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Thái xử phạt 18 tháng tù về tội “Cướp tài sản riêng của công dân”, chấp hành xong bản án ngày 18/8/1986;
- Tại Quyết định khởi tố bị can số 115 ngày 03/6/1989 Công an tỉnh Bắc Thái khởi tố bị can về hành vi “Trộm cắp tài sản xã hội chủ nghĩa”, Tại Quyết định đình chỉ điều tra số 10 ngày 26/7/1989 để xử lý hành chính - Tại Bản án số 151/2008/HSST ngày 27/8/2008 Tòa án nhân dân TPTN xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” chấp hành xong án phí ngày 28/5/2015.
- Tại Quyết định số 0035255/QĐ-XPHC ngày 19/10/2018 Công an TPTN xử phạt vi phạm hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”, đã thi hành xong ngày 19/10/2018 Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/01/2020 cho đến ngày 09/01/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn. Hiện bị cáo đang thi hành bản án số 546/2019/HSST ngày 21/10/2019 theo Quyết định thi hành án phạt tù số 03/2020/QĐ-CA ngày 20/01/2020 của Tòa án nhân dân TPTN tại trại giam Vĩnh Quang- Bộ Công an từ ngày 25/2/2020 (có mặt tại phiên tòa)
*Ngƣời chứng kiến: Anh Nguyễn Xuân Y, sinh năm 1980 (vắng mặt) Trú tại: tổ r, phường QV, TPTN
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 00 phút ngày 06/01/2020 Nguyễn H đi bộ đến khu vực đầu cầu GB tìm mua ma túy để sử dụng, tại đây H gặp một người đàn ông không quen biết hỏi mua 100.000 đồng được 02 gói ma túy bọc bằng giấy bạc màu vàng H cất số ma túy vào túi quần phía trước bên phải rồi đi tìm nơi sử dụng. Khoảng 09 giờ cùng ngày H đi bộ đến khu vực tổ b, phường QV, TPTN thì gặp tổ công tác của công an phường QV, TPTN kiểm tra. Quá trình kiểm tra H tự giác lấy từ túi quần bên phải phía trước đang mặc ra 02 gói giấy bạc màu vàng giao nộp cho tổ công tác, kiểm tra bên trong 02 gói giấy bạc màu vàng đều chứa chất bột màu trắng theo H khai là Heroine, vừa mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng, niêm phong theo quy định, cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TPTN tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn H là 0,185gam, niêm phong ký hiệu H gửi giám định.
Tại bản kết luận giám định số 180/KL-KTHS ngày 14/01/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu H gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,185 gam.
Bản cáo trạng sô 166/CT-VKSTPTN ngày 30 tháng 03 năm 2020 của Viện kiêm sat nhân dânTPTN, tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn H thừa nhận do nghiện ma túy nên đi mua ma túy về sử dụng và bị lực lượng công an khám xét thu giữ như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TPTN luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn H từ 24 đến 30 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo;
Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy phong bì niêm phong ký hiệu H; Áp dụng Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016 ngày 30/12/2016 của UBTVQH 14 Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bố mẹ bị cáo hiện tuổi cao cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất sớm trở về gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TPTN, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân TPTN, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[2] Nhận định của Hội đồng xét xử về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn H tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra và các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của người chứng kiến sự việc, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thái Nguyên về số chất bột màu trắng được thu của Nguyễn H là Heroine. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Do nghiện ma túy nên hồi 09 giờ 00 ngày 06/01/2020 Nguyễn H đi đến khu vực đầu cầu GB mua 100.000 đồng được 02 gói ma túy, H đang trên đường tìm nơi sử dụng thì bị lực lượng công an phường QV yêu cầu kiểm tra, thu giữ vật chứng, qua cân kiểm tra số chất bột màu trắng xác định khối lượng 0,185 gam, giám định là Heroine.
[3] Với hành vi cất giữ 0,185gam Heroine với mục đích để sử dụng như trên hành vi của bị cáo Nguyễn H đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
[4] Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền quản lý, sử dụng độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, là nguyên nhân phát sinh nhiều tệ nạn và tội phạm khác. Tệ nạn ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, hành vi của bị cáo không chỉ hủy hoại sức khỏe của bản thân, làm suy thoái giống nòi, làm khánh kiệt kinh tế, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo phải nhận thức được tác hại của ma túy đối với người sử dụng và đối với xã hội tuy nhiên bị cáo không từ bỏ ma túy mà vẫn mua Heroine phục vụ cho nhu cầu của bản thân.
[5] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; xét nhân thân bị cáo là đối tượng nghiện, đã bị xử phạt hành chính cũng như xét xử về nhiều hành vi phạm tội khác nhau, ngày 21/10/2019 bị Tòa án nhân dân TPTN xét xử về tội Trộm cắp tài sản đến nay chưa được xóa án tích do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện mà tiếp tục lao vào con đường phạm tội, do đó Hội đồng xét xử xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[6] Tổng hợp hình phạt: Bị cáo đang chấp hành hình phạt 12 tháng tù giam tại bản án số 546/2019/HSST ngày 21/10/2019 do đó Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt của hai bản án.
[7] Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung “ phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng....tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có tài sản và thu nhập do đó Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[8] Xử lývật chứng: Đối với bì niêm phong Heroine cần tịch thu tiêu hủy.
[9] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[9] Về nguồn gốc số Heroine, Nguyễn H khai mua của một người nam giới không quen biết, quá trình điều tra cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của người bán ma túy nên chưa có căn cứ xem xét.
[10] Mức án mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa xét thấy là phù hợp, được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
Căn cứ Điều 326 Bộ luật tố tụng hình sự
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn H phạm tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy"
[2] Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 Bộ luật hình sự 2015.
Xử phạt: Nguyễn H 30 (Ba mươi) tháng tù, tổng hợp hình phạt 12 tháng tù tại bản án số 546/2019/HSST ngày 21/10/2019 Tòa án nhân dân TPTN. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 42 (Bốn mươi hai) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 25/2/2020 được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 06/1/2020 đến ngày 09/01/2020.
[3] Xử lývật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong đúng quy định ký hiệu H mặt sau phong bì có 02 dấu tròn của Phòng KTHS Công an tỉnh Thái Nguyên và 02 chữ ký của Vũ Quang H, Nguyễn Thành T.
(Hiện vật chứng nêu trên đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự TPTN theo biên bản giao nhận số 233 lập ngày 25/03/2020).
[4] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm
[5] Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo Nguyễn H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 202/2020/HS-ST ngày 25/05/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 202/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về