TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM -THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 202/2019/HS-ST NGÀY 30/12/2019 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30/12/2019 tại Cơ sở cai nghiện ma túy số VI, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 201/2019/HSST ngày 04/12/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/QĐXXST-HS ngày 11/12/2019 đối với bị cáo:
TẠ PHỤ H, sinh năm 1992; Nơi cư trú: khu 5, DN, TN, Phú Thọ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tạ Phụ B (đã chết), và bà Hán Thị T; Gia đình có 05 anh chị em, bị cáo là con thứ 4; Tiền án, tiền sự: 01 tiền sự: Quyết định số 37/QĐ-TA ngày 10/10/2019 của TAND huyện GL áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 19 tháng. Nhân thân: Năm 2013, đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc 24 tháng theo quyết định của UBND huyện TN, Phú Thọ; Hiện bị cáo đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số VI, Hà Nội. Có mặt tại phiên tòa;
Người bị hại: Công ty TNHH xây dựng CN; Địa chỉ: Thôn PL, xã HT, huyện MĐ, Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Bà Lưu Thị D-Giám đốc Công ty.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1995; HKTT: Thôn V, TN, LT, Hòa Bình; Chỗ ở: Thôn 7, ĐD, GL, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử vắng mặt);
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Đình H, sinh năm 1992; KHTT: KG, BT, VC, Yên Bái; Chỗ ở: Làng N, TB, LB, Hà Nội. Vắng mặt tại phiên tòa
Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992; Trú tại: Xóm 1, thôn PĐ, xã TL, KB, Hà Nam. Vắng mặt tại phiên tòa
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ ngày 15/8/2019, anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992, ĐKHKTT: TL, KB, Hà Nam là nhân viên lái xe của Công ty TNHH xây dựng và công nghệ MH (nay là Công ty TNHH xây dựng CN) có cơ sở tại ĐD, GL, Hà Nội nhận bàn giao xe ô tô tải nhãn hiệu HOWO, BKS: 29H-174.08 để đi làm ca thì anh T phát hiện 04 lốp ô tô của xe bị thay bằng 04 lốp ô tô cũ khác. Anh T đã báo cho anh Nguyễn Văn H là nhân viên quản lý Công ty biết, sau đó anh H đã trình báo cơ quan Công an và giao nộp cho Cơ quan điều tra 04 chiếc lốp ô tô cũ trên.
Vật chứng thu giữ:
-01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu goodride-CB995-1200R20, có mã số dập nổi MR335, đã qua sử dụng;
-01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu SKYFIRE-SK522-1200R20, có mã số dập nổi GL1200BY 35 -06, đã qua sử dụng;
-01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu KORYO-K307-1200R20, có mã số dập nổi FX 1220 -267, đã qua sử dụng;
-01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu FESITE-HF 702-1200R20, có mã số dập nổi DO T8 3AGQ 501, đã qua sử dụng.
Qúa trình điều tra, đã làm rõ đối tượng Tạ Phụ H, sinh năm 1992, ĐKHKTT: khu 5, DN, TN, Phú Thọ đã tráo đổi 04 lốp của xe ô tô tải nhãn hiệu HOWO, BKS: 29H -174.08 của Công ty bằng 04 lốp ô tô cũ khác.
Tại cơ quan điều tra, bị can Tạ Phụ H khai nhận: Từ tháng 8 năm 2019, Tạ Phụ H làm lái xe thuê cho Công ty TNHH xây dựng và công nghệ MH và được Công ty giao cho chiếc xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS: 29H -174.08 để chở vật liệu. Ngày 10/8/2019, H gọi điện cho Hoàng Đình H, sinh 1992, trú tại: BT, VC, Yên Bái (là lái xe cứu hộ) nói muốn đổi 02 lốp của xe ô tô H đang đi và thay bằng 02 chiếc lốp ô tô cũ, H hẹn ĐH ra gầm cầu đường cao tốc Hà Nội-Hải Phòng, thuộc địa phận GL. Sau đó, H đi xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS: 29H-174.08 đến chỗ hẹn gặp ĐH. Tại đây, ĐH đã tháo hai chiếc lốp ô tô ở cầu giữa bên ghế phụ của chiếc xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS: 29H -174.08 và thay vào đó là 02 chiếc lốp ô tô cũ ĐH chuẩn bị từ trước. Thay xong, ĐH trả cho H 5.000.000 đồng. Tiếp tục, khoảng 06 giờ ngày 14/8/2019, theo lịch nhận xe đi làm, H ra bãi để xe của công ty MH ở ĐD, GL lấy xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS 29H-174.08 để đi chở cát cho công ty ML ở V. Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, H nhìn thấy hai bánh lốp ô tô ở cầu cuối bên ghế lái, có nhãn hiệu WEST LAKE màu đen, của xe ô tô HOWO, BKS 29H-174.08 còn mới nên H đã nảy sinh ý định thay 02 lốp ô tô mới đó bằng 02 lốp ô tô cũ để hưởng lợi. Để tránh mọi người biết, H gọi điện cho ĐH và nói: có 02 chiếc lốp ô tô mới vừa mới chạy muốn đổi thành 02 chiếc lốp ô tô cũ, thỏa thuận giá cả là 3 triệu đồng. H đồng ý, hẹn ĐH đến làng nghề KK, xã KK, GL. Sau đó H lái xe ô tô đến khu làng nghề KK gặp ĐH, ĐH tháo 02 lốp ô tô ở cầu cuối bên ghế lái của xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS 29H -174.08 và lắp vào xe 02 lốp ô tô cũ của ĐH đã chuẩn bị từ trước. Thay xong ĐH trả H số tiền 2 triệu đồng và nợ 1 triệu khi nào gặp trả sau. Sau đó H gọi điện cho anh VH nói là xe ô tô bị hỏng, VH bảo H đưa xe đến gara ô tô SY tại KK để sửa chữa. H lái xe ô tô đến gara ô tô SY và để xe ở đó rồi đi về Công ty. Đến khoảng 18 giờ 30 ngày 15/8/2019, anh VH và Phạm Hữu P, sinh năm 1992, trú tại: MĐ, Hà Nội đến gara ô tô SY lấy xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS 29H -174.08 mang về. Đến 19 giờ cùng ngày 15/8/2019 thì hành vi tráo đổi lốp ô tô của H bị phát hiện.
Lời khai nhận tội của bị can phù hợp với vật chứng đã thu giữ, phù hợp với lời khai của người bị hại, người liên quan và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Đối với Hoàng Đình H khi mua đổi 04 chiếc lốp ô tô do H bán thì bản thân ĐH không biết đó là tài sản của công ty do H lái thuê. Do vậy, không đủ căn cứ xác định ĐH có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. ĐH khai sau khi mua 04 lốp ô tô của H thì ĐH đã bán cho nam thanh niên (không rõ nhân thân) 02 lốp ô tô ở cầu giữa bên ghế phụ với giá 6.500.000 đồng; 02 lốp ô tô ở cầu cuối bên ghế lái với giá 4.000.000 triệu đồng. Do vậy cơ quan điều tra chưa thu hồi được 04 lốp ô tô trên. Trong việc trao đổi mua bán 04 chiếc lốp ô tô thì ĐH đã được hưởng tiền chênh lệch là 3.500.000 đồng. ĐH đã giao nộp lại cho cơ quan điều tra số tiền 3.500.000 đồng.
Tại kết luận định giá tài sản số 114 ngày 29/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện GL, kết luận: 04 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu WEST LAKE có tổng giá trị là 28.000.000 đồng (7.000.000 đồng/ chiếc x 4 chiếc).
Về dân sự: ông Nguyễn Văn H được công ty TNHH xây dựng CN ủy quyền có yêu cầu H phải bồi thường số tiền 28.000.000 đồng.
Bản cáo trạng số 208/CT-VKS ngày 30/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện GL đã truy tố Tạ Phụ H về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Tạ Phụ H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
3 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện GL giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa, sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết của vụ án vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
-Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Tạ Phụ H từ 15 tháng đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
-Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
-Về dân sự: Bị cáo có trách nhiệm bồi thường số tiền 28.000.000đồng theo yêu cầu của người bị hại.
-Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu sung công số tiền 3.500.000đồng và tịch thu tiêu hủy 04 chiếc lốp xe ô tô đã cũ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Tạ Phụ H khai nhận toàn bộ nội dung vụ việc phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung Kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và bản Cáo trạng của Viện kiểm sát. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận: Ngày 10/8/2019 và ngày 14/8/2019, bị cáo Tạ Phụ H được Công ty TNHH xây dựng CN giao cho sử dụng chiếc xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS 29H -174.08 để đi chở vật liệu, bị cáo đã đổi 04 chiếc lốp ô tô mới thành 04 chiếc lốp ô tô cũ, lấy số tiền chênh lệch tiêu xài cá nhân. Trị giá 04 chiếc lốp ô tô mới của Công ty TNHH xây dựng CN là 28.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, vi phạm điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.
Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo phạm tội hai lần, giá trị tài sản mỗi lần phạm tội là 14.000.000đồng nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng là phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để Hội đồng xét xử giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ. Bị cáo lợi dụng việc được Công ty TNHH xây dựng CN giao xe ô tô nhãn hiệu HOWO, BKS 29H-174.08 để đi chở vật liệu tại Công ty V, sau đó bị cáo mang xe đi đổi 04 chiếc lốp ô tô mới thành 04 chiếc lốp ô tô cũ, lấy tiền chênh lệch là 08 triệu (thực tế nhận 7 triệu, còn nợ 1 triệu đồng) để tiêu xài cá nhân. Điều đó đã gây mất lòng tin trong mối quan hệ công tác và cá nhân với nhau. Về nhân thân, bị cáo đã bị áp dụng biện pháp cai nghiện bắt buộc năm 2013, nay tiếp tục đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy số VI, Hà Nội. Như vậy, bị cáo có nhân thân xấu nên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
Đối với Hoàng Đình H khi mua đổi 04 chiếc lốp ô tô do H bán thì bản thân ĐH không biết đó là tài sản của Công ty TNHH xây dựng CN do H lái thuê. Do vậy, không đủ căn cứ xác định ĐH có hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có. Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.
[3] Về những chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa cơ bản phù hợp với kết quả nghị án của Hội đồng xét xử.
[4] Đánh giá về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, không có ai khiếu nại gì nên Hội đồng xét xử không phải xem xét.
[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt này vì bị cáo không có việc làm ổn định.
[6] Về dân sự: Ông Nguyễn Văn H được Công ty TNHH xây dựng CN ủy quyền có yêu cầu H phải bồi thường số tiền 28.000.000 đồng là có căn cứ nên được chấp nhận.
[7] Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 04 chiếc lốp xe ô tô đã cũ;
Số tiền thu lời chênh lệch 3.500.000đồng, anh ĐH đã tự nguyện nộp lại cần tịch thu sung công.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST, DSST theo pháp luật quy định.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo qui định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố:
Bị cáo Tạ Phụ H phạm tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Căn cứ vào:
-Điểm a khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
-Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; 5 -Điều 136; Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
Xử phạt: Bị cáo Tạ Phụ H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về dân sự: Bị cáo phải bồi thường 28.000.000đ (hai mươi tám triệu đồng) trả Công ty TNHH xây dựng CN;
Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu goodride-CB995-1200R20, có mã số dập nổi MR335, đã qua sử dụng; 01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu SKYFIRE-SK522-1200R20, có mã số dập nổi GL1200BY 35 -06, đã qua sử dụng; 01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu KORYO-K307-1200R20, có mã số dập nổi FX 1220 -267, đã qua sử dụng; 01 chiếc lốp ô tô nhãn hiệu FESITE-HF 702-1200R20, có mã số dập nổi DO T8 3AGQ 501, đã qua sử dụng.
Tịch thu sung công: 3.500.000đồng do anh Hoàng Đình H đã tự nguyện giao nộp.
(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 11/12/2019 giữa Công an huyện GL và Chi cục thi hành án dân sự huyện GL và Biên lai thu tiền số AA/2010/0001699 ngày 12/12/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện GL).
Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.400.000đồng (một triệu bốn trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm để sung công quỹ nhà nước.
Án xử công khai, sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án vắng mặt hợp lệ
Bản án 202/2019/HS-ST ngày 30/12/2019 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 202/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về