TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 08/2021/QĐST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Minh D (Tên gọi khác: D Nhóc), sinh năm 1998 tại tỉnh An Giang; nơi đăng ký thường trú: Ấp Đ, xã V, huyện T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Minh T và bà Thi Thị Xuân T1; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án số 160/2019/HSST ngày 09/7/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xử phạt 06 năm tù về tội Cướp tài sản.
Bị cáo hiện đang bị giam giữ tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai; có đơn xin xét xử vắng mặt.
Bị hại: Ông Võ Sơn N, sinh năm 1975; địa chỉ: Khu phố 5, phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương; có đơn xin xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Minh D, Dương Anh H, Nguyễn Thành Đ, Bùi Văn T, Nguyễn Thanh B và Nguyễn Cao T là bạn bè quen biết và cùng chơi chung với nhau.
Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 16/3/2015, Đ, D, H, T sau khi uống rượu tại nhà của B và T1. Đạt lên tiếng rủ cả nhóm đi chặn cướp xe môtô của những người đi đường bán lấy tiền tiêu xài thì cả nhóm đồng ý. B lấy 01 con dao tự chế dài khoảng 50cm, 02 gậy ba khúc bằng kim loại và 01 bình xịt hơi cay đưa cho cả nhóm giữ để làm hung khí đi cướp tài sản. Sau đó Bình điều khiển xe môtô nhãn hiệu Exciter (không rõ biển số) chở D, Đ điều khiển xe môtô nhãn hiệu Exciter (không rõ biển số) chở H còn T1 điều khiển xe môtô nhãn hiệu Airblade biển số 60B1-695.41 chở T, đi tìm tài sản để cướp. Đến khoảng 04 giờ 00 phút ngày 17/3/2015 sau khi thực hiện 02 vụ cướp tài sản tại địa bàn tỉnh Đồng Nai thì cả nhóm tiếp tục đi đến đoạn đường thuộc ấp 3, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Lúc này, cả nhóm nhìn thấy anh Võ Sơn N điều khiển xe môtô nhãn hiệu Wave alpha biển số 61E1-402.83 đang đi theo hướng từ xã Tân Mỹ về xã Thường Tân. Thấy vậy, cả nhóm quay xe lại chạy đuổi theo anh N. Đ chở B đuổi theo và ép được xe của anh N vào lề đường, B dùng dao tự chế chém nhiều nhát vào người của anh N làm anh N té ngã xuống đường. Sau đó B lấy xe môtô của anh N cùng cả nhóm tẩu thoát về hướng phường Uyên Hưng, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Sau khi cướp được xe môtô của anh N, B đem xe môtô này về nhà B cất giấu đồng thời để tránh bị phát hiện B tháo biển số xe của anh N rồi gắn vào xe môtô nhãn hiệu Exciter đã cướp được trước đó.
Đến ngày 19/3/2015, B điện thoại cho Trung Văn N1 để nhờ tìm người mua xe môtô cướp được của anh N, mặc dù biết được xe môtô này là tài sản do B cướp được nhưng N1 vẫn đồng ý. N1 liên lạc với một người tên T3 (không rõ nhân thân lai lịch) ở Campuchia thì T3 đồng ý mua xe môtô này. Sau khi bán được xe môtô này B cho N1 1.000.000 đồng số tiền còn lại B và T1 đã chia nhau tiêu xài hết. Sau đó, D, B, T1, N1, Đ và T bị Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai bắt giữ vì thực hiện các vụ cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 61 ngày 27/3/2015 của Trung tâm pháp y tỉnh Bình Dương xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của anh Võ Sơn N là 08% (tám phần trăm).
Tại bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 08 ngày 07/4/2015 của Hội đồng định giá tài sản huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xác định xe môtô biển số 61E1-402.83 của anh Võ Sơn N tại thời điểm bị chiếm đọa có giá trị 13.000.000 đồng (mười ba triệu đồng).
Ngay 08/4/2015, Cơ quan Cảnh sát điêu tra Công an huyên Băc Tân Uyên đã ra Quyết định khởi tố bi can đối với Trần Minh D để điều tra về hành vi Cướp tài sản theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã xử phạt các bị cáo Trần Minh D, Dương Anh H, Nguyễn Thành Đ, Nguyễn Thanh B và Nguyễn Cao T1 về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133, bị can Trung Văn N1 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Ngày 14/8/2019, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị tái thẩm số 14/QĐ-VC3-V1 đề nghị hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương do có căn cứ xác định bị can Trần Minh D không phải sinh năm: 1994 như lý lịch bị can đã thể hiện trong bản án sơ thẩm.
Tại Quyết định tái thẩm số 11/2020/HS-TT ngày 16/5/2020 của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định chấp nhận Kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về phần xử phạt của bị cáo Trần Minh D và trả hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm để điều tra, xét xử lại.
Ngày 12/8/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã ra Quyết định trả hồ sơ vụ án để điều tra lại cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Quá trình điều tra có căn cứ xác định bị can Trần Minh D sinh năm 1998 chứ không không phải sinh năm 1994.
Do đó, Cáo trạng số: 05/CT – VKS - BTU ngày 18 tháng 01 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Trần Minh D, sinh năm 1998 về tội Cướp tài sản theo quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; điểm p khoản 1 Điều 46; của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009:
Xử phạt bị cáo Trần Minh D mức án từ 05 năm 03 tháng đến 06 năm tù.
Bị cáo Trần Minh D có đơn xin xét xử vắng mặt; trong đơn, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình và trình bày xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh D và bị hại Võ Sơn N có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290; Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người trên.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 17/3/2015 tại đoạn đường thuộc ấp 3, xã Tân Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Trần Minh D, Dương Anh H, Nguyễn Thành Đ, Bùi Văn T, Nguyễn Thanh B và Nguyễn Cao T1 đã có hành vi dùng dao tự chế chém gây thương tích cho anh Võ Sơn N với tỷ lệ tổn thương cơ thể 08% và chiếm đoạt xe môtô biển số 61E1- 402.83 có giá trị 13.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội Cướp tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009. Như vậy, Cáo trạng số 05/CT – VKS - BTU ngày 18 tháng 01 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Tân Uyên và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4] Tội phạm do bị cáo thực hiện là rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh tại địa phương và gây hoang mang cho người dân trên địa bàn. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
Trong vụ án có đồng phạm nhưng mang tính chất giản đơn, trong đó bị cáo Trần Minh D có vai trò là người giúp sức tích cực để Đ và B thực hiện hành vi phạm tội nên cần áp dụng cho bị cáo hình phạt nhẹ hơn các đối tượng Đ và B.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.
[7] Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Trần Minh D chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức về pháp luật có phần hạn chế. Vì vậy, cần áp dụng Điều 69, 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009 đối với bị cáo.
[8] Đối với xử lý trách nhiệm hình sự các đối tượng còn lại; xử lý vật chứng; trách nhiệm dân sự và án phí dân sự: Đã được giải quyết tại phần quyết định có hiệu lực pháp luật của Bản án hình sự sơ thẩm số 49/2015/HSST ngày 24/9/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Tân Uyên nên không đặt ra xem xét.
[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm p khoản 1 Điều 46; Điều 53; Điều 69; Điều 74; điểm d khoản 2 Điều 133 của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm 2009.
Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh và hình phạt:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Minh D phạm tội “Cướp tài sản”.
Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Minh D 5 (Năm) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trần Minh D phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
3. Bị cáo, bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án 20/2021/HS-ST ngày 06/04/2021 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 20/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/04/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về