Bản án 20/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 20/2021/HS-PT NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 03 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 21/2020/TLPT-HS, ngày 29 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn V P, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 57/2020/HS-ST ngày 17/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn V P (tên gọi khác Q), sinh năm 1977; tại Vĩnh Long. Nơi cư trú: ấp T P, xã A, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn V T và bà Lê T H; Bị cáo có vợ (đã ly hôn) và 01 con; Tiền sự: không.

Tiền án: vào ngày 25/9/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long xử phạt 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và “Cướp giật tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, nhưng chưa thi hành xong các quyết định khác của bản án (chưa bồi thường thiệt hại).

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/9/2020 đến ngày 25/9/2020 chuyển tạm giam từ đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 10 phút, ngày 22/9/2020, Công an huyện Trà Ôn kết hợp cùng Công an xã T T, huyện T tuần tra đoạn đường thuộc ấp Tích Lộc, xã Tích Thiện phát hiện Hồ V T điều khiển xe mô tô biển số 64F1-004.83 chở phía sau Nguyễn V P, có biểu hiện nghi vấn nên ra tín hiệu dừng phương tiện để kiểm tra. Khi T dừng xe, P bước xuống xe, dùng tay phải lấy bịch nylon để trong túi quần vứt bỏ, thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang cùng tang vật thu giữ:

+ 01 bịch nylon trong suốt được hàn kín có chứa tinh thể trong suốt; 004.83.

+ Số tiền 75.000đ (bảy mươi lăm nghìn đồng);

+ 01 xe môtô màu đen nhãn hiệu Wave biển kiểm soát 64F1- Công an huyện T tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn V P thu giữ tài sản:

+ 01 bình nhựa màu trắng có nắp đậy màu đỏ, trên nắp có một đoạn ống thủy tinh nối với một đoạn ống nhựa màu trắng bên trong có chất lỏng;

+ 01 hộp quẹt gas màu trắng được nối với một đoạn ống bằng kim loại.

Tại kết luận giám định số: 454/KLGĐ-PC09, ngày 24/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: mẫu tinh thể trong suốt bên trong 01 bịch nylon được niêm phong, trong phong bì ký hiệu 01 gửi giám định là ma túy có khối lượng 0,2073 gam loại Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 455/KLGĐ-PC09 ngày 28/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: mẫu chất lỏng trong suốt bên trong bình nhựa trong túi niêm phong, kí hiệu 03 gửi giám định có thể tích 72ml, loại Methamphetamine. Hàm lượng Methamphetamine trong mẫu chất lỏng là 1,0901mg/ml, khối lượng Methamphetamine có trong 72ml mẫu chất lỏng là 0,0784 gam.

Tổng khối lượng Methamphetamine thu giữ của bị cáo trong bịch nylon và trong bình nhựa là 0,2857 gam.

Tại bản số 57/2020/HS-ST ngày 17 tháng12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn V P (Q) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn V P 02 (hai) năm tù.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn xử lý vật chứng và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Đến ngày 21 tháng12 năm 2020 bị cáo Nguyễn V P làm đơn kháng cáo với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Tại phiên toà Kiểm sát viên và bị cáo trình bày như sau:

Kiểm sát viên phát biểu quan điểm giải quyết vụ án: bị cáo Nguyễn V P khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, nên Tòa án nhân dân huyện T đã xét xử là không oan sai. Sau khi xét xử sơ thẩm xong, bị cáo kháng cáo xin Hội đồng xét xử xin giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn và để chăm sóc cho cha mẹ già. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ mới, nên đề nghị không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo và giữ y án sơ thẩm. Đồng thời, buộc bị cáo nộp 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Bị cáo Nguyễn V P khai nhận: bị cáo tàng trữ chất ma túy mục đích để sử dụng, cấp sơ thẩm xét xử đúng tội, bị cáo chỉ xin giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo là lao động chính và thường xuyên bị bệnh, sức khỏe không tốt.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt tù, để bị cáo có cơ hội sửa sai và sớm trở về tái hòa nhập cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn V P đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với kết luận giám định, cùng những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập và thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm. Do đó, cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Nguyễn V P phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn V P là nguy hiểm cho xã hội. Bản thân bị cáo đã sử dụng ma túy và có hành vi mua ma túy từ một người khác để sử dụng. Theo Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Long kết luận: tổng khối lượng Methamphetamine thu giữ của bị cáo trong bịch nylon và trong bình nhựa là 0,2857 gam. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến an ninh, trật tự, trị an ở địa phương, để lại hậu quả rất xấu cho xã hội. Khi sử dụng chất ma túy, con nghiện khó kiềm chế được bản thân, làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên hơn ai hết, bị cáo là người biết rõ tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn bất chấp thực hiện hành vi phạm tội. Hiện nay tình hình tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng và phức tạp. Bị cáo đã bị kết án chưa được xóa án tích, nên lần này phạm tội thuộc trường hợp tái phạm. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe những trường hợp tương tự và phòng ngừa chung cho xã hội.

Cấp sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo, xét cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm tù là không nặng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp tình tiết nào mới có ý nghĩa giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó các quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo xin được giảm hình phạt đối với bị cáo.

[3] Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về việc không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo là có cơ sở nên được chấp nhận.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Tuyên không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn V P và giữ nguyên hình phạt Bản án sơ thẩm số: 57/2020/HS-ST ngày 17 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Vĩnh Long.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn V P (Q) 02 (hai) năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính từ ngày bị cáo bị bắt ngày 22/9/2020. .

Án phí phúc thẩm: căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, điểm a khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn V P (Q) phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2021/HS-PT ngày 10/03/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về