TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN S, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 20/2021/DS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
Ngày 29 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 31/2021/TLST-DS ngày 30 tháng 3 năm 2021, về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2021/QĐXXST-DS ngày 24 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2021/QĐST- DS ngày 10/6/2021; giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T; địa chỉ: Lầu 8, 266 - 268 Nm Kỳ Khởi N, Phường 8, quận 3, TP. Hồ Chí Minh. Đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D - Chức vụ: Tổng Giám đốc. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hoàng Thanh H – Chức vụ: Giám đốc Chi nhánh Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T tại TP. Đà Nẵng, theo Giấy ủy quyền số: 3977/2020/QĐ - PL ngày 28/12/2020. Ngày 01/3/2021. Ông H uỷ quyền lại cho ông Phạm Thanh N - Chức vụ: Chuyên viên quan hệ khách hàng, theo văn bản ủy quyền số 117/2021/UQ-CNĐN. Có mặt.
- Bị đơn: Bà Trần Thị Lê N, sinh năm 1984; địa chỉ: Số 95 Đông D, quận S, thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện gửi đến Toà án ngày 22/3/2021 và quá trình tố tụng tại Tòa án, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn ông Phạm Thanh N trình bày:
Ngày 17/01/2018, bà Trần Thị Lê N có ký với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T (gọi tắt là Ngân hàng), hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng – các tài liệu gọi chung là hợp đồng). Căn cứ vào thu nhập của bà N, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà N đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 159.700.000 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà N đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 140.450.000 đồng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà N vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà N vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành thẻ tín dụng của Ngân hàng) nên ngày 01/02/2019, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Tính đến ngày 01/3/2021, bà N còn nợ Ngân hàng các khoản sau: Dư nợ:
22.990.638 đồng; lãi quá hạn: 21.840.880 đồng. Tổng cộng: 44.831.518 đồng (Bốn mươi bốn triệu tám trăm ba mươi mốt ngàn năm trăm mười tám đồng).
Mặc dù Ngân hàng đã yêu cầu bà N có trách nhiệm thanh toán, tuy nhiên bà Na vẫn chưa thanh toán khản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản đã qui định tại Hợp đồng đã ký.
Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T kính đề nghị Tòa án xem xét buộc bà Trần Thị Lê N phải thanh toán dứt điểm toàn bộ số tiền nợ gốc và nợ lãi phát sinh tính đến ngày xét xử: 29/6/2021 là: 48.280.078 đồng (Bốn mươi tám triệu hai trăm tám mươi ngàn không trăm bảy mươi tám đồng). Trong đó nợ gốc: 47.446.676 đồng; nợ lãi:
833.402 đồng.
* Bị đơn bà Trần Thị Lê N đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng không đến nên không có lời khai của bà N trong hồ sơ vụ án và không có ý kiến phản hồi gì liên quan đến chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cũng như ý kiến về việc có hay không yêu cầu phản tố.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Căn cứ Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 của Chính Phủ về thanh toán không dùng tiền mặt và Thông tư số 19/2016/TT-NHNN ngày 30.6.2016 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về hoạt động thẻ Ngân hàng thì tranh chấp hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng giữa Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương T và bà Trần Thị Lê N là tranh chấp về hoạt động cung ứng dịch vụ thanh toán, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[1.2]. Bà Trần Thị Lê N (là bị đơn trong vụ án, không có yêu cầu phản tố) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên căn cứ khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bà N.
[2]. Về nội dung vụ án:
Ngày 17/01/2018, bà Trần Thị Lê N có ký với Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T (gọi tắt là Ngân hàng), hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng (bao gồm Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng và Bản điều khoản và Điều kiện phát hành và sử dụng thẻ tín dụng Ngân hàng – các tài liệu gọi chung là hợp đồng). Căn cứ vào thu nhập của bà N, Ngân hàng đã đồng ý cấp thẻ tín dụng với hạn mức sử dụng là 20.000.000 đồng, với mục đích tiêu dùng cá nhân. Sau khi được cấp thẻ tín dụng, bà N đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 159.700.000 đồng.
Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà N đã thực hiện các giao dịch đến tháng 9/2018 với số tiền 140.450.000 đồng. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà N vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà N vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành thẻ tín dụng của Ngân hàng) nên ngày 01/02/2019, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của Bản Điều khoản và Điều kiện phát hành thẻ tín dụng của Ngân hàng).
Tính đến ngày 01/3/2021, bà N còn nợ Ngân hàng các khoản sau: Dư nợ:
22.990.638 đồng; lãi quá hạn: 21.840.880 đồng. Tổng cộng: 44.831.518 đồng (Bốn mươi bốn triệu tám trăm ba mươi mốt ngàn năm trăm mười tám đồng).
Mặc dù Ngân hàng đã yêu cầu bà N có trách nhiệm thanh toán, tuy nhiên bà Na vẫn chưa thanh toán khản nợ vay quá hạn cho Ngân hàng, vi phạm các điều khoản đã qui định tại Hợp đồng đã ký.
Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Ngân hàng, Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T kính đề nghị Tòa án xem xét buộc bà Trần Thị Lê N phải thanh toán dứt điểm toàn bộ số tiền nợ gốc và nợ lãi phát sinh tính đến ngày xét xử: 29/6/2021 là: 48.280.078 đồng (Bốn mươi tám triệu hai trăm tám mươi ngàn không trăm bảy mươi tám đồng). Trong đó nợ gốc: 47.446.676 đồng; nợ lãi:
833.402 đồng.
[3]. Hội đồng xét xử xét thấy: Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 18.01.2018 (kèm theo Bản điều khoản và điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng) được ký kết giữa Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T với bà Trần Thị Lê N trên cơ sở tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức nên được thừa nhận và bảo vệ. Các bên tham gia trong giao dịch này có mọi quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đã ký kết nói trên.
Quá trình thực hiện hợp đồng, bà N đã không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ theo thông báo giao dịch của Ngân hàng, liên tục không trả nợ trong nhiều kỳ. Mặc dù Ngân hàng đã nhiều lần nhắc nhở nhưng bà N vẫn không trả được nợ. Do đó, ngày 01/02/2019, Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ của bà N và chuyển toàn bộ dư nợ sang nợ quá hạn, áp dụng lãi suất nợ quá hạn trên toàn bộ dư nợ theo quy định của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T. Như vậy, bà N đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ của bên được cấp thẻ như thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 18.01.2018. Việc khởi kiện của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T yêu cầu Tòa án buộc bà Trần Thị Lê N phải trả số tiền:
48.280.078 đồng (Bốn mươi tám triệu hai trăm tám mươi ngàn không trăm bảy mươi tám đồng). Trong đó nợ gốc: 47.446.676 đồng; nợ lãi: 833.402 đồng. (Tính đến ngày xét xử sơ thẩm ngày 29/6/2021) là phù hợp với quy định tại Điều 280 của Bộ luật dân sự năm 2015 khoản 2 Điều 91 Luật tổ chức tín dụng; Điều 7, Điều 8 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm và Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nên cần được chấp nhận.
Lãi suất, phí tiếp tục được Th kể từ ngày 30/6/2021 trên số dư nợ gốc theo mức lãi suất nợ quá hạn do các bên thoả thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 18/01/2018 cho đến khi bà N thanh toán xong khoản nợ là phù hợp với Điều 13 của Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm.
[4]. Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn là Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T được chấp nhận nên bị đơn bà Trần Thị Lê N phải chịu án phí theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Cụ thể số tiền bà Trần Thị Lê N phải chịu là (48.280.078 đồng x 5%) = 2.414.003 đồng (Hai triệu bốn trăm mười bốn ngàn không trăm lẻ ba đồng).
Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T số tiền đã nộp tạm ứng án phí.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
- Khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;
- Điều 280 của Bộ luật dân sự năm 2015;
- Khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010;
- Căn cứ Điều 13 Thông tư 39/2016/TT-NHNN ngày 30/12/2016 của Ngân hàng nhà nước Việt Nm quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, Chi nhánh ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng;
- Căn cứ Điều 7, Điều 8, Điều 13 Nghị quyết 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật về lãi, lãi suất, phạt vi phạm;
- Căn cứ Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc: "Tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T đối với bà Trần Thị Lê N.
Xử:
1. Buộc bà Trần Thị Lê N phải trả cho Ngân hàng Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T số tiền: 48.280.078 đồng (Bốn mươi tám triệu hai trăm tám mươi ngàn không trăm bảy mươi tám đồng). Trong đó nợ gốc: 47.446.676 đồng; nợ lãi: 833.402 đồng (lãi tạm tính đến ngày 29/6/2021) và tiền lãi phát sinh kể từ ngày 30/6/2021 cho đến khi trả hết nợ theo mức lãi suất do các bên đã thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 18/01/2018.
2. Án phí DS- ST: 2.414.003 đồng bà Trần Thị Lê N phải chịu.
Hoàn trả cho Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương T số tiền 1.120.787 đồng (Một triệu một trăm hai mươi ngàn bảy trăm tám mươi bảy đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 6631 ngày 26/3/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự quận S, thành phố Đà Nẵng.
Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 20/2021/DS-ST ngày 29/06/2021 về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Số hiệu: | 20/2021/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 29/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về