Bản án 20/2021/DS-ST ngày 06/04/2021 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH LỢI, TỈNH BẠC LIÊU

 BẢN ÁN 20/2021/DS-ST NGÀY 06/04/2021 VỀ TRANH CHẤP HỤI

Ngày 06 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 167/2020/TLST- DS ngày 14 tháng 10 năm 2020 về việc tranh chấp hụi, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-DS ngày 09 tháng 02 năm 2021, giữa:

1. Đồng nguyên đơn:

1.1 Ông Lê Thanh D (tên gọi khác: D1), sinh năm 1974 (có mặt).

1.2. Bà Lê Kiều T, sinh năm 1972 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu.

Người đại diện theo ủy quyền của bà T: Ông Lê Thanh D (tên gọi khác:

D1), sinh năm 1974; địa chỉ: Ấp M, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu (có mặt).

2. Bị đơn: Bà Đỗ Thị N; địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Trần Thanh T; địa chỉ: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 31/8/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Lê Thanh D và bà Lê Kiều T trình bày:

Ông D và bà T là chủ hụi. Ngày 30/02/2015 (âm lịch) ông bà có mở dây hụi 5 triệu đồng, dự kiến mãn hụi vào ngày 30/01/2020 âm lịch. Dây hụi gồm có 21 phần. Vợ chồng ông T, bà N tham gia 01 phần. Khi chơi hụi, các bên thỏa thuận ngày mở hụi và kỳ khui hụi đầu tiên là ngày 30/02/2015 âm lịch, thời gian khui hụi là 03 tháng/1 lần, ai bỏ hụi cao nhất của kỳ khui hụi thì sẽ được hốt hụi. Thời gian gom tiền hụi là 10 ngày kể từ ngày khui hụi và thời gian chung (đưa cho người hốt) tiền hụi là 10 ngày kể từ ngày gom hụi. Bà N, ông T đã hốt vào ngày 30/5/2017 âm lịch (kỳ thứ 10) với số tiền là 68.100.000 đồng (có biên nhận giao tiền). Sau đó, bà N và ông T đóng hụi chết cho ông bà đến hết kỳ thứ 19, còn lại 02 kỳ hụi chết chưa đóng (kỳ 20 và 21). Do ông bà đã đóng thay tiền hụi chết cho bà N và ông T nên nay ông bà khởi kiện yêu cầu bà N và ông T trả số tiền hụi là 10.000.000 đồng và không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn Bà Đỗ Thị N trình bày: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bà N vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi đã tiến hành lấy lời khai ngày 07/01/2021 thì bà N không đồng ý cho lấy lời khai và bà N xác định: Bà có tham gia 01 phần hụi của dây hụi 5 triệu đồng do ông D và bà T làm chủ. Bà đã hốt phần hụi trên nhưng không nhớ hốt vào kỳ nào và bao nhiêu tiền. Tuy nhiên, bà còn thiếu 02 kỳ hụi chết (kỳ hụi cuối và kỳ hụi liền kề trước đó) chưa đóng cho bà T và ông D. Nguyên nhân là do bà T và ông D bể hụi và chưa thanh toán đủ tiền cho các hụi viên khác nên bà N dự định sẽ trả dần số tiền trên.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh T trình bày: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông T vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Ông T xác định ông là chồng bà N. Việc bà N giao dịch hụi như thế nào thì ông không rõ, tuy nhiên số tiền hốt hụi được vợ chồng sử dụng chung. Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì ông đồng ý trả nhưng không đồng ý trả vào lúc này.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Lê Thanh D và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Lê Kiều T là ông D vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Qua phân tích, đánh giá các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án và tranh tụng tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 471 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 16, khoản 2 Điều 17, khoản 1 Điều 24, khoản 3 Điều 27 của Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đương sự phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có lưu trong hồ sơ vụ án; sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, sau khi thảo luận Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Bị đơn Bà Đỗ Thị N và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không rõ lý do. Căn cứ khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà N, ông T.

[2] Về tố tụng: Bà T và ông D khởi kiện đòi tiền hụi đối với bà N và ông T. Bà N và ông T hiện cư trú tại Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên đây là tranh chấp hụi và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Lợi theo quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung: Bà T và ông D khởi kiện yêu cầu bà N và ông T trả số tiền hụi 10.000.000 đồng mà ông bà đã đóng thay. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện, bà T và ông D cung cấp tờ giấy “Danh sách huội: 5 000 000 Đ” và Biên nhận tiền đề ngày 30/6/2017 âm lịch. Ông D và bà T xác định: Bà N và ông T tham gia 01 phần hụi do ông bà làm chủ, loại hụi 5 triệu đồng và bà N, ông T đã hốt vào ngày 30/5/2017 âm lịch. Còn bà N xác định có tham gia 01 phần hụi, loại hụi 5 triệu đồng và đã hốt hụi; còn ông T xác định giao dịch chơi hụi là do vợ ông trực tiếp thực hiện nên ông T không rõ. Như vậy, có căn cứ xác định giữa ông D, bà T với bà N có giao dịch hụi, loại hụi 5 triệu đồng và bà N đã hốt dây hụi này.

[3.1] Bà N xác định lý do chưa thanh toán tiền 02 kỳ hụi chết cho ông D và bà T là do ông D, bà T bể hụi và chưa thanh toán đủ tiền hụi cho các hụi viên khác. Tuy nhiên, ông D1 và bà T xác định dây hụi vẫn hoạt động bình thường cho đến mãn hụi và ông bà đã đóng 02 kỳ hụi chết cho bà N và ông T. Để chứng minh cho việc đóng hụi thay, ông D và bà T cung cấp người làm chứng là ông Trần Quốc N1. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 01/4/2021, ông N1 xác định, vợ chồng ông có tham gia dây hụi mở ngày 30/02/2015, loại hụi 5 triệu đồng do ông D và bà T làm chủ nhưng vợ chồng ông đã hốt vào lần 20 (tháng 10 năm 2020 âm lịch). Như vậy, không có căn cứ dây hụi của ông D, bà T bể và chưa thanh toán cho các hụi viên khác như bà N trình bày. Xét thấy, chủ hụi chỉ mang tính chất là vai trò trung gian ăn hoa hồng và có trách nhiệm gom hụi của các hụi viên trong dây hụi giao hụi lại cho người được lĩnh hụi, nên việc bà N vi phạm nghĩa vụ thanh toán đã làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ hụi và các hụi viên, kể từ ngày bà N ngưng đóng hụi và ông D, bà T đã xuất tiền đóng hụi thay cho bà N cho đến khi mãn hụi. Do đó, yêu cầu khởi kiện đòi tiền hụi của nguyên đơn đối với bà N là có căn cứ.

[3.2] Ông D và bà T yêu cầu bà N và ông T có trách nhiệm trả số tiền hụi 10.000.000 đồng. Xét thấy, ông D, bà T không cung cấp tài liệu chứng cứ nào thể hiện ông T tham gia hụi. Tuy nhiên, tại Biên bản lấy lời khai ngày 07/01/2021, ông T xác định ông là chồng bà N và số tiền hốt hụi được vợ chồng sử dụng chung nên cần buộc bà N và ông T phải có nghĩa vụ trả cho ông D, bà T số tiền hụi là 10.000.000 đồng.

[4] Từ những lập luận, phân tích, đánh giá chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy có đầy đủ cơ sở chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông D, bà T cần buộc bà N và ông T trả cho cho ông D, bà T số tiền là 10.000.000 đồng theo quy định tại Điều 471, Điều 688 Bộ luật Dân sự; khoản 2 Điều 16, khoản 2 Điều 17; khoản 1 Điều 24, khoản 3 Điều 27 của Nghị định số 19/2019 ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường. Chấp nhận toàn bộ đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[5] Về án phí sơ thẩm có giá ngạch: Ông D, bà T không phải chịu án phí. Do yêu cầu khởi kiện của ông D và bà T được chấp nhận nên bà N và ông T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch là 10.000.000 đồng x 5% = 500.000 đồng. Ông D và bà T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 250.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008293 ngày 14/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu nên được hoàn lại toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 471, Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015; khoản 2 Điều 16, khoản 2 Điều 17, khoản 1 Điều 24, khoản 3 Điều 27 của Nghị định số 19/2019 ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường; điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Thanh D và bà Lê Kiều T đối với Bà Đỗ Thị N và ông Trần Thanh T.

Buộc Bà Đỗ Thị N và ông Trần Thanh T trả cho ông Lê Thanh D và bà Lê Kiều T số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng).

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Đỗ Thị N và ông Trần Thanh T phải nộp 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). Ông Lê Thanh D và bà Lê Kiều T đã nộp tạm ứng án phí số tiền 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008293 ngày 14/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Bạc Liêu được hoàn lại toàn bộ.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử công khai, đồng nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 20/2021/DS-ST ngày 06/04/2021 về tranh chấp hụi

Số hiệu:20/2021/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Lợi - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành:06/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về