TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 20/2020/HS-ST NGÀY 23/05/2020 VỀ TỘI SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 23 tháng 5 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 18/2020/TLST-HS ngày 31 tháng 3 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa Số 14/2020/HSST-QĐ ngày 08 tháng 5 năm 2020, đối với bị cáo:
Nguyễn Anh D, sinh năm 1992 tại tỉnh Đồng Tháp; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Ấp 4, xã ML, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 07/12; Con ông Nguyễn Anh K - sinh năm 1969 và bà Phạm Thị H - sinh năm 1972; Chưa có vợ và con; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con lớn trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt tại phiên tòa).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Phan Hữu T - sinh năm 1988;
Cư trú: Khóm MT, phường MP, thành phố CL, tỉnh Đồng Tháp (vắng mặt).
2. Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng.
Địa chỉ: Tầng 2 Tòa nhà Ree Tower, số 09 Đoàn Văn Bơ, Phường 12, Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Lô Bằng G - Chức vụ: Chủ tịch Hội đồng thành viên.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Văn C - Chức vụ: Trưởng bộ phận quản lý đối tác chiến lược thu hồi nợ ngoại bảng.
(Người đại diện Công ty tài chính TNHH một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Bị cáo Nguyễn Anh D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện CL truy tố về hành vi phạm tội như sau:
Ngày 03/10/2018, Nguyễn Anh Dương đến cửa hàng xe máy Nhất Lâm ở thành phố Sa Đéc mua 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Nouvo trị giá 19.500.000 đồng, D được cấp giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô mang biển số 66C1-136.38. Sau đó, D hợp đồng thế chấp giấy đăng ký xe trên để vay 19.500.000 đồng trả góp cho Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng, D đã trả góp cho Ngân hàng được 6.246.000đồng, D còn nợ ngân hàng 16.158.000 đồng (bao gồm vốn và lãi suất chậm trả). Đến tháng 12/2018, D mang xe mô tô biển số 66C1-136.38 đến tiệm cầm đồ Phương T thuộc ấp 2, xã MH, huyện CL cầm được số tiền 4.000.000 đồng. Đầu tháng 4/2019, D thỏa thuận bán xe mô tô biển số 66C1-136.38 cho anh Phan Hữu T, sinh năm 1988 ngụ khóm MT, phường MP, thành phố CL số tiền 12.000.000 đồng, anh T mang 4.000.000 đồng đến tiệm cầm đồ Phương T chuộc lại xe thay cho D, D giao xe cho T quản lý sử dụng, D nói với anh T là hiện tại giấy đăng ký xe 66C1-136.38 đang thế chấp ngân hàng nên hẹn 10 ngày sau trả tiền cho Ngân hàng lấy giấy đang ký xe giao cho anh T. Do không có tiền trả cho Ngân hàng nên D gặp người đàn ông không biết tên và địa chỉ làm giấy xe giả với số tiền là 500.000 đồng. Đến ngày 15/4/2019, D đưa giấy đăng ký xe mô tô biển số 66C1-136.38 giả cho anh T, anh T giao số tiền còn lại là 8.000.000 đồng cho D. Trong quá trình quản lý sử dụng anh T phát hiện giấy chứng nhận đăng ký xe là giả nên đến Công an huyện CL tố giác hành vi của D. Đồng thời giao nộp vật chứng: Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 049395, biển số đăng ký 66C1-136.38, tên chủ xe Nguyễn Anh D 1992, địa chỉ: ấp 4,Mỹ Long,II Canh Lãnh, Đồng Tháp; có hình dấu tròn màu đỏ nội dung “CÔNG AN TỈNH ĐỒNG THÁP CÔNG AN HUYỆN CAO LÃNH”, chữ ký mang tên Thượng tá Nguyễn Văn Luận, P. Trưởng CA huyện, đề ngày 05/10/2018; cùng xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Nouvo biển số 66C1-136.38 cho Cơ quan Công an để xử lý theo quy định pháp luật.
Tại bản kết luận giám định số 685/KL-KTHS ngày 26/8/2019 của phòng kỹ thuận hình sự Công an tỉnh Đồng Tháp kết luận: Giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 049395, tên chủ xe Nguyễn Anh D là giấy giả.
Trong quá trình điều tra, anh Phan Hữu T yêu cầu Nguyễn Anh D phải trả lại toàn bộ số tiền mua xe và các chi phí khác tổng cộng là 13.500.000 đồng, D đồng ý và đã trả cho anh T xong, anh T không còn yêu cầu gì thêm.
Đối với số tiền 16.158.000 đồng, bị cáo D còn nợ chưa thanh toán. Quá trình điều tra anh Lê Minh Thuận là đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng yêu cầu được thu hồi nhận lại chiếc xe trên được D đồng ý. Xét thấy, đây là quan hệ dân sự, các bên là tự nguyện thỏa thuận không trái pháp luật nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện CL đã trả lại chiếc xe mô tô biển số 66C1-136.38 cho đại diện ngân hàng là anh T xong, ngân hàng không còn yều cầu gì thêm.
Tại Cáo trạng số 18/CT-VKS-HCL ngày 30/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh đã truy tố bị cáo Nguyễn Anh D về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tại phiên tòa sơ thẩm:
* Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo, đồng thời đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh D phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh D với mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù;
Về trách nhiệm dân sự: Không.
Về xử lý vật chứng: Lưu vào hồ sơ vụ án giấy đăng ký xe mô tô, xe máy số 049395, biển số đăng ký 66C1-136.38, tên chủ xe Nguyễn Anh D 1992, địa chỉ: ấp 4,Mỹ Long,II Canh Lãnh, Đồng Tháp; có hình dấu tròn màu đỏ nội dung “CÔNG AN TỈNH ĐỒNG THÁP CÔNG AN HUYỆN CAO LÃNH”, chữ ký mang tên Thượng tá Nguyễn Văn Luận, P.Trưởng CA huyện, đề ngày 05/10/2018 được giám định là giấy giả (Là vật chứng trong vụ án).
* Bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng và Luận tội của Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng, bị cáo đã ăn năn hối hận về hành vi mà bị cáo đã gây ra, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cao Lãnh, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Cao Lãnh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra, truy tố, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, mọi hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Anh D đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội được mô tả trong bản cáo trạng số 18/CT-VKS-HCL ngày 30/3/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cao Lãnh là đúng với hành vi của bị cáo. Do không có tiền tiêu xài nên D đã bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Nouvo mang biển số 66C1-136.38 (do D là chủ sỡ hữu) cho anh Phan Hữu T vào khoảng đầu tháng 4 năm 2019. Tuy nhiên, giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy (gọi tắt là giấy xe) D đã thế chấp cho Công ty tài chính trách nhiệm hữu hạn một thành viên Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (gọi tắt là Công ty tài chính) nên không thể giao cho anh T, hai bên đã thỏa thuận 10 ngày sau sẽ giao giấy xe nhưng khi đến hạn mà D chưa có đủ tiền để xóa thế chấp tại Công ty tài chính để lấy giấy xe về giao cho anh T, trong khi đó anh T liên tục hối thúc D giao giấy xe, nên D mới nảy sinh ý định tìm và sử dụng giấy xe giả để tạm giao cho anh T trong thời gian chờ đủ tiền xóa thế chấp và D đã thực hiện xong hành vi giao giấy xe giả cho anh T vào ngày 15/4/2019 tại ấp 4, xã ML, huyện CL, tỉnh Đồng Tháp.
Tại phiên tòa, bị cáo còn thừa nhận do chưa lo được số tiền còn thiếu để trả cho Công ty tài chính nên chưa lấy giấy xe giao lại cho anh T như đã thỏa thuận, đồng thời phía anh T nhiều lần hối thúc bị cáo phải thực hiện nghĩa vụ giao giấy xe, không còn cách nào khác nên bị cáo mới nảy sinh ý định thực hiện hành vi như đã nêu trên. Bị cáo còn khai nhận ý chí của bị cáo chỉ sử dụng giấy xe giả để tạm giao cho anh T, sau đó bị cáo sẽ lo tiền trả cho Công ty tài chính để lấy giấy xe thật giao lại cho anh T, chứ mục đích của bị cáo không phải sử dụng giấy giả để chiếm đoạt số tiền trên của anh T.
Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, kết luận giám định, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Với những căn cứ nêu trên, Hội đồng xét xử kết luận, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Anh D đã cấu thành tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về tài liệu. Khi thực hiện tội phạm, bị cáo là người đã thành niên, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, bị cáo nhận thức được việc sử dụng giấy đăng ký xe giả là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu trên, chứng tỏ hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và tội phạm đã hoàn thành. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để bị cáo có thời gian học tập, cải tạo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội sau này, đồng thời có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả xong; bị cáo mới phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo khi lượng hình.
[7] Về xử lý vật chứng: Đối với tài liệu giả là giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 049395, biển số đăng ký 66C1-136.38, tên chủ xe Nguyễn Anh D 1992, địa chỉ: ấp 4,Mỹ Long,II Canh Lãnh, Đồng Tháp; có hình dấu tròn màu đỏ nội dung “CÔNG AN TỈNH ĐỒNG THÁP CÔNG AN HUYỆN CAO LÃNH”, chữ ký mang tên Thượng tá Nguyễn Văn Luận, P.Trưởng CA huyện, đề ngày 05/10/2018 cần tịch thu lưu hồ sơ vụ án.
[8] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong, không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.
[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát huyện Cao Lãnh về tội danh, khung hình phạt và mức hình phạt là có căn cứ và phù hợp nên chấp nhận.
[11] Đối với người nam làm giấy xe giả cho D, do không biết tên và địa chỉ cụ thể, khi nào xác minh làm rõ sẽ xử lý sau.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ khoản 1 Điều 341; điểm b, i và s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Anh D phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Anh D 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
- Về xử lý vật chứng: Tịch thu lưu hồ sơ vụ án một giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 049395, biển số đăng ký 66C1-136.38, tên chủ xe Nguyễn Anh D 1992, địa chỉ: ấp 4,Mỹ Long,II Canh Lãnh, Đồng Tháp; có hình dấu tròn màu đỏ nội dung “CÔNG AN TỈNH ĐỒNG THÁP CÔNG AN HUYỆN CAO LÃNH”, chữ ký mang tên Thượng tá Nguyễn Văn Luận, P. Trưởng CA huyện, đề ngày 05/10/2018 được xác định là tài liệu giả.
- Về trách nhiệm dân sự: Không có.
- Về án phí: Áp dụng khoản 1 Điều 21; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Buộc bị cáo Nguyễn Anh D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 20/2020/HS-ST ngày 23/05/2020 về tội sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 20/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Cao Lãnh - Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về