TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN
BẢN ÁN 20/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/02/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON CHUNG
Ngày 21 tháng 02 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 1119/2019/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 12 năm 2019 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 04/2020/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2020 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1986. (có mặt) Địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1986. (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp D, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn xin ly hôn ngày 03 tháng 12 năm 2019 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Vũ Thị T trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn D chung sống với nhau vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn; nguyên nhân mâu thuẫn là do cuộc sống vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm sống, anh chị thường xuyên cãi nhau. Anh chị đã ly thân từ tháng 10 năm 2019 đến nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không thể hàn gắn, cuộc sống hôn nhân không thể tiếp tục nên chị yêu cầu ly hôn anh Nguyễn Văn D.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/3/2013 và Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh ngày 15/02/2016. Từ khi ly thân đến nay, chị là người trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng 02 con chung. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng 02 con chung, không yêu cầu anh Nguyễn Văn D cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Văn D trình bày trong quá trình giải quyết vụ án: Anh thống nhất với lời trình bày của chị Vũ Thị T về thời gian chung sống; điều kiện kết hôn; và con chung. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến tháng 10/2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do cuộc sống vợ chồng không hợp. Nay chị T xin ly hôn, anh D đồng ý, vì mâu thuẫn vợ chồng không thể khắc phục được.
Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/3/2013 và Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh ngày 15/02/2016. Khi ly hôn, anh yêu cầu được nuôi con chung là Nguyễn Thị Quỳnh M, để chị T được tiếp tục nuôi con chung là Nguyễn Thành Đ. Không đặt ra vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Hai con hiện nay vẫn đang sống với anh chị.
Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại phiên tòa, chị T đồng ý để anh D tiếp tục nuôi con chung là Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh ngày 15/02/2016, chị không cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện các thủ tục mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Các đương sự đều thống nhất các chứng cứ của vụ án đã được giao nộp đầy đủ và được công khai đúng thủ tục nhưng kết quả hòa giải đoàn tụ không thành.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ các kết quả xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về tố tụng: Chị Vũ Thị T khởi kiện yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn D; anh D có hộ khẩu thường trú tại ấp D, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An và hiện đang có mặt tại địa phương nên Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Văn D vắng mặt nhưng đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nên căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn xét xử vắng mặt bị đơn.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn D chung sống với nhau vào năm 2014 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện P, tỉnh Thái Nguyên nên hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[3]. Xét thấy, chị T và anh D đều trình bày trong quá trình chung sống, cuộc sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn nhưng mâu thuẫn lại không được gia đình hai bên và chính quyền địa phương giải quyết. Anh chị cũng không thể tự khắc phục được dẫn đến sống ly thân từ tháng 10 năm 2019. Trong quá trình giải quyết vụ án, chị T và anh D đều trình bày tình cảm vợ chồng đã rạn nứt, không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng. Thấy rằng hôn nhân giữa chị T và anh D đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc. Chị T yêu cầu ly hôn, anh D đồng ý. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị T đối với anh D là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Về con chung: Chị T và anh D thống nhất có 02 con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/3/2013 và Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh ngày 15/02/2016. Con chung hiện vẫn đang sống chung với anh chị.
Đối với con chung Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/3/2013, chị T và anh D thống nhất để chị T tiếp tục nuôi dưỡng; đối với con chung Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh ngày 15/02/2016, anh D có lời trình bày yêu cầu được nuôi dưỡng Nguyễn Thị Quỳnh M, tại phiên tòa chị T đồng ý để anh D tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy, sự thỏa thuận của chị T và anh D về con chung này phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[5]. Về cấp dưỡng: Không bên nào có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6]. Về tài sản chung: Chị T và anh D thống nhất trình bày tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7]. Về nợ chung: Chị T và anh D thống nhất trình bày không có nên Hội đồng xét xử không xem xét
[8]. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, 273, 483, Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, 56, 81, 82, 83, 84, 110, 116 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị T đối với anh Nguyễn Văn D về việc “Ly hôn”.
Chị Vũ Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.
2. Về con chung: Chị Vũ Thị T được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 03/3/2013; anh Nguyễn Văn D được quyền tiếp tục nuôi dưỡng con chung là Nguyễn Thị Quỳnh M, sinh ngày 15/02/2016. Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung vì không có yêu cầu.
Cả hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Bên không nuôi con được quyền tới lui, thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Trường hợp bên không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung thì bên trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con theo quy định pháp luật. Bên trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được quyền cản trở bên không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Khi cần thiết, trên cơ sở lợi ích của con chung thì bên trực tiếp nuôi con, bên không trực tiếp nuôi con, cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
3. Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm sung công quỹ Nhà nước nhưng được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai thu số 0004025 ngày 03/12/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Hoà, tỉnh Long An để thi hành.
Án xử sơ thẩm và tuyên án công khai, nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 20/2020/HNGĐ-ST ngày 21/02/2020 về ly hôn, tranh chấp quyền nuôi con chung
Số hiệu: | 20/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về