Bản án 20/2019/DS-PT ngày 11/03/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 20/2019/DS-PT NGÀY 11/03/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Trong các ngày 06 tháng 3 và ngày 11 tháng 3 năm 2019, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 80/2018/DSPT ngày 28/12/2018 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bòi thường thiệt hại” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2019/QĐXXPT-DS ngày 12/02/2019 giữa:

1.Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1984.

Địa chỉ: Thôn Quang Phúc, xã T, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Phú L.

Địa chỉ: Thôn G, xã S, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa

2. Bị đơn: Ông Ngô Khắc B, sinh năm 1949.

Địa chỉ: Thôn G, xã S, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Phú L và bà Nguyễn Thị C.

Địa chỉ: Thôn G, xã S, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa: Có mặt ông Nguyễn Phú L và ông Ngô Khắc B; vắng mặt chị Nguyễn Thị D và bà Nguyễn Thị C (đã ủy quyền cho ông Nguyễn Phú L).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 29/06/2018 của chị Nguyễn Thị D và bản tự khai của người đại diện theo ủy quyền của chị D là ông Nguyễn Phú L trình bày:

Nguồn gốc thửa đất số 197, tờ bản đồ số 20, bản đồ địa chính xã S, địa chỉ: Thôn B Sơn, xã S, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa, diện tích 169m2 là do ông Nguyễn Phú L mua của UBND xã S hộ cho con gái ông là chị Nguyễn Thị D có các cạnh: Phía Đông giáp thửa 198 của ông Hà Ngọc Tuấn dài 40,75m, phía Tây giáp thửa 196 của ông Phạm kỳ Công dài 38,52m, phía Nam giáp suối 4,14m, phía Bắc giáp trục đường xã S 5,31m.

Sau khi mua với UBND xã chị D để cho vợ chồng ông tạm thời quản lý trông cỏ voi phục vụ chăn nuôi.

Ngày 20/10/2013, ông Ngô Khắc B là người sử dụng cùng khu đất với chị D đã đổ 05 xe đá hộc và thuê người vứt đá lên thửa đất của con gái ông làm dập nát cỏ mà gia đình ông trồng để chăn nuôi. Ông L đã trực tiếp báo cáo UBND xã S và được ông Trưởng Công an xã can ngăn nên không vứt nữa.

Từ năm 2013 đến năm 2018, do ông B đổ đá cản trở, làm hư hỏng phần đầu và phần giữa của thửa đất, gia đình ông L phải bỏ canh tác, còn phần cuối cỏ vẫn mọc được gia đình ông vẫn tận thu và vẫn giữ nguyên hiện trường để chờ UBND xã giải quyết.

Đến ngày 07/4/2018, ông B chặt cây keo đổ lên phần cuối mảnh đất với diện tích 50m2 và trồng keo lên diện tích đất đó. Ông L đã làm đơn báo cáo và UBND xã đã thành lập Hội đồng xuống hiện trường để xác minh, ngày 04/5/2018 UBND xã tiến hành hòa giải hai bên nhưng không thành.

Nay chị D có đơn khởi kiện và ủy quyền cho ông L yêu cầu Tòa án huyện Ngọc Lặc giải quyết: Buộc ông Ngô Khắc B phải thu dọn toàn bộ số đá hộc và cây keo để trả lại cho chị D diện tích đất 169m2 và yêu cầu ông B phải bồi thường thiệt hại cho gia đình ông L số tiền do không trồng cỏ được trong 05 năm (từ năm 2013 đến năm 2018) là 2.000.000đ/năm = 10.000.000đ.

*Bị đơn ông Ngô Khắc B trình bày:

Năm 2002 thực hiện chủ trương đổi đất lấy cơ sở hạ tầng, ông nhất trí xây dựng cho thôn B Sơn, xã S công trình nhà Văn hóa Thôn và được bàn giao quyền sử dụng đất tại thôn B Sơn, xã S với diện tích đất nông nghiệp 780m2, thửa đất chạy dài theo bờ suối 34m. Đến năm 2004 xã S bán đất cho 07 hộ gia đình, trong đó gia đình ông có mua một số đất giáp ranh với nhà ông chạy theo trục đường của xã 32m với số tiền 3.200.000đ.

Diện tích đất mà chị Nguyễn Thị D khởi kiện tại thửa số 197 là đất của gia đình ông, ông đã trồng keo trên đất đó từ lâu. Nay chị D yêu cầu ông trả lại đất và bồi thường thiệt hại là hoàn toàn không đúng.

*Bà Nguyễn Thị C trình bày: Hoàn toàn thống nhất như ý kiến của chị Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Phú L. Yêu cầu Tòa án buộc ông Ngô Khắc B phải bồi thường cho gia đình bà số tiền trồng cỏ hàng năm là 10.000.000đ.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 10/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc đã Quyết định:

Áp dụng: khoản 1 Điều 12; khoản 5 Điều 166; Điều 202; điểm b khoản 2 Điều 203 Luật đất đai năm 2013; khoản 1 Điều 166 Bộ luật dân sự năm 2015;

1.Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị D.

Công nhận diện tích đất ở 168,6m2 tại thửa số 197, tờ bản đồ số 20, bản đồ địa chính xã S, địa chỉ: Thôn B Sơn, xã S, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa thuộc quyền sử dụng hợp pháp của chị Nguyễn Thị D.

Vị trí thửa đất (Có sơ đồ kèm theo) được xác định:

- Phía Đông giáp với thửa đất số 198 của anh Hà Ngọc Tuấn dài 40,74m;

- Phía Tây giáp với thửa đất số 196 của ông Phạm Kỳ Công dài 38,52m;

- Phía Nam giáp suối chiều rộng 4,14m;

- Phía Bắc giáp với đường đi xã S đi phố 1 chiều rộng 5,31m.

2. Buộc ông Ngô Khắc B phải thu hoạch di chuyển 21 cây keo A có đường kính dưới 05cm; 40,8m2 nghệ A và thu dọn 24m3 đá hộc tại thửa đất số 197 để trả lại cho chị Nguyễn Thị D diện tích đất 168,6m2.

3. Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Phú L, bà Phạm Thị C về việc yêu cầu ông Ngô Khắc B bồi thường tiền trồng cỏ từ năm 2013 đến năm 2018 là 10.000.000đ.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên nghĩa vụ án phí, nghĩa vụ chậm thi hành bản án và giành quyền kháng cáo.

Ngày 27 tháng 11 năm 2018, bị đơn ông Ngô Khắc B có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm với các nội dung:

- Chị D và ông L chưa xác lập được quyền sử dụng đất, gia đình ông đã sử dụng thửa đất số 197 trước ông L 10 năm;

- Tòa án thẩm định 21 cây keo và 40,8m2 cây nghệ nằm trên thửa 197 là không đúng mà nằm trên thửa 196, vì kết quả kiểm tra ngày 25/7/2018 của UBND xã S thì thửa 196 của gia đình ông vẫn còn thiếu 1,28m mặt đường;

- Tòa án chưa xác định được ranh giới của thửa 196 và thửa 197 và chưa xem xét các yêu tố liên quan như: Thửa 196 là đất của ông nhưng ông Lê Chúc Chim nguyên cán bộ địa chính giả mạo chữ ký của ông bán cho ông Phạm Kỳ Công, ông đã có đơn tố cáo, năm 2013 ông Phạm Kỳ Công kiện ông đến TAND huyện Ngọc Lặc nhưng sau đó do không có cơ sở nên đã phải rút đơn.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện. Bị đơn ông Ngô Khắc B bổ sung thêm nội dung kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm không đưa vợ ông là bà Lê Thị Khánh tham gia giải quyết là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ vì Tòa án không đưa ông Hà Ngọc Minh, ông Phạm Kỳ Công, UBND xã S và UBND huyện Ngọc Lặc tham gia để xác định nguồn gốc và mốc giới đất. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm. Các bên không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Kiểm sát viên VKSND tỉnh Thanh Hóa tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vì lý do: Tòa án cấp sơ thẩm vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng vì không đưa đầy đủ những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia giải quyết và việc thu thập chứng cứ để xác định nguồn gốc đất chưa đầy đủ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

[1] Về thủ tục tố tụng: Theo đơn khởi kiện, chị Nguyễn Thị D yêu cầu Tòa án buộc ông Ngô Khắc B phải di chuyển toàn bộ cây keo, đá hộc để trả lại cho chị diện tích đất 169m2 tại thửa 197, tờ bản đồ số 20, bản đồ địa chính xã S và yêu cầu bồi thường thiệt hại 10.000.000đ. Tranh chấp giữa các bên chưa có giấy tờ theo Điều 100 Luật đất đai năm 2013 nhưng đã được UBND xã S hòa giải nhiều lần. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm xác định quan hệ dân sự là “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu bồi thường thiệt hại” và thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo khoản 9 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm b khoản 2 Điều 203 Luật đất đai 2013. Sau khi xử sơ thẩm, bị đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét nội D kháng cáo của bị đơn ông Ngô Khắc B, thấy rằng:

Về nguồn gốc đất các bên đang tranh chấp tại thửa 196, tờ bản đồ 20, bản đồ địa chính xã S, theo chị D cho rằng do ông Nguyễn Phú L (bố chị) mua hộ, ông L cũng cho rằng ông mua đất của UBND xã S. Ông L xuất trình Phiếu thu tiền ngày 11/2/2004 và Phiếu thu tiền ngày 11/4/2004 của UBND xã S về việc bán đất 5%, tên người nộp tiền ông Nguyễn Phú Yên, mục người nộp tiền ký tên là ông Nguyễn Phú L (BL14), nhưng đồng thời xuất trình “Giấy xin xác nhận thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất” ngày 10/3/2008 giữa chị Nguyễn Thị D và ông Hà Ngọc Minh (BL03,04), ông Hà Ngọc Minh cũng khai ông mua của Ủy ban sau đó để lại cho con trai ông và để lại cho ông L một phần (BL88). Như vậy cùng một mảnh đất nhưng có các tài liệu, chứng cứ mâu thuẫn nhau, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa đưa ông Nguyễn Phú Yên, ông Hà Ngọc Minh và UBND xã S tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để làm rõ nguồn gốc đất. Về phía ông Ngô Khắc B cho rằng nguồn gốc đất là của ông do được UBND xã S giao đất để đổi lấy công trình từ năm 2003 và xuất trình Văn bản giao đất của UBND xã S ngày 14/01/2003 với diện tích 748m2. Tuy nhiên quá trình thẩm định Tòa án mới chỉ đo đạc tại thửa 197 mà chưa đo đạc cả các thửa đất của ông B để xác định mốc giới, diện tích thừa, thiếu của các bên, đồng thời tại thửa 197 cũng cần xác định rõ ông B lấn chiếm toàn bộ hay chỉ một phần để tuyên cho chính xác. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm cần thu thập đầy đủ hồ sơ quản lý đất đai các thời kỳ (tờ bản đồ, sổ mục kê) và cần có ý kiến của UBND huyện Ngọc Lặc về việc quản lý sử dụng đất để đảm bảo việc giải quyết vụ án được đầy đủ, chính xác. Đối với bà Lê Thị Khánh (vợ bị đơn) chưa được tham gia tố tụng là ảnh hưởng đến quyền lợi của bà Khánh khi thi hành bản án.

[3] Diện tích đất các bên đang tranh chấp chưa có giấy tờ, trong trường hợp có đủ căn cứ xác định không thuộc quyền sử dụng của ông Ngô Khắc B, nhưng việc Tòa án cấp sơ thẩm công nhận luôn quyền sử dụng đất ở hợp pháp cho chị D là chưa đủ cơ sở vững chắc mà chỉ nên tạm giao cho nguyên đơn quản lý và phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định của Luật đất đai.

[4] Do Tòa án cấp sơ thẩm có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và việc thu thập chứng cứ chưa đầy đủ mà không thể khắc phục được tại cấp phúc thẩm. Do đó cần hủy bản án sơ thẩm để giao hồ sơ cho Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại theo thủ tục chung.

[5] Về án phí: Bản án sơ thẩm bị hủy nên người kháng cáo không phải nộp án phí phúc thẩm dân sự.

Vì các lẽ trên,

Căn cứ: khoản 3 Điều 308; Điều 310 của Bộ luật tố tụng dân sự.

QUYẾT ĐỊNH

Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm dân sự số 10/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc. Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân huyện Ngọc Lặc giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.

Về án phí: Áp dụng khoản 3 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án.

Hoàn trả cho ông Ngô Khắc B số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm đã nộp 300.000đ theo Biên lai thu số AA/2016/0002246 ngày 03/12/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngọc Lặc.

Án xử công khai phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

366
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2019/DS-PT ngày 11/03/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:20/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 11/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về