Bản án 20/2018/HSST ngày 29/05/2018 về tội sản xuất hàng cấm

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ HỢP, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 20/2018/HSST NGÀY 29/05/2018 VỀ TỘI SẢN XUẤT HÀNG CẤM

Ngày 29 tháng 5 năm 2018 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2018/HSST ngày 18 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo: Họ và tên: Nguyễn Văn C, tên gọi khác: Không

Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1972

Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm T, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12 ; Dân tộc: Kinh. Con ông: Nguyễn Tấn G (chết)

Con bà: Nguyễn Thị T, sinh năm 1939

Trú tại: Xóm T, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An

Vợ : Nguyễn Thuý H, sinh năm 1977

Trú tại: Xóm T, xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An

Con: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1999, nhở nhất sinh năm 2010

Tiền sự: không có

Tiền án: Không có

Tạm giữ từ ngày 06/01/2018 đến 15/01/2018, sau đó áp dụng biện pháp ngăn chặm cấm đi khỏi nơi cư trú.

Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:

1- Trần Văn Kh, sinh năm 1979

Trú tại: Xóm C, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An (có mặt)

2- Hoàng Văn V, sinh năm 1997

Trú tại: Xóm D, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng cuối tháng 12 năm 2016 Nguyễn Văn C có mua với một người đàn ông không quen biết 02 kg thuốc pháo nổ với giá 400.000đ đưa về làm pháo nổ để bán kiếm lời trong dịp tết Nguyên đán, cuối tháng 12 năm 2017 Nguyễn Văn C đã bán cho Trần Văn K, trú tại xóm C, xã N, huyện Q, tỉnh Nghệ An 0,8 kg thuốc pháo nổ và 43,5 mét dây cháy chậm (do C tự chế) với giá 1.470.000đ, K đưa về sản xuất được 04 kg pháo nổ, khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05 tháng 01 năm 2018 C đang thực hiện hành vi bán pháo nổ cho Hoàng Văn V, trú tại xóm D, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An thì bị Công an huyện Quỳ Hợp phát hiện, bắt quả tang và thu giữ 2,65kg pháo nổ và số tiền 1.000.000đ .

Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Văn C đã thu giữ gồm: 7,05 kg nghi pháo nổ, 41,15 mét nghi dây cháy chậm có khối lượng 165,585g; 173,2g nghi thuốc pháo; 4,1 kg nghi vỏ pháo và một số đồ vật, dụng cụ dùng để sản xuất pháo nổ.Khám xét và thu giữ tại nhà của Trần Văn K gồm: 04 kg nghi pháo nổ; 4,82 m nghi dây cháy chậm có khối lượng 10,580g; 70,395g nghi thuốc pháo và một số đồ vật, dụng cụ dùng để sản xuất pháo nổ.

Tại biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong lại các vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn C được đánh số ký hiệutừ (M1 đến M12) các vật chứng thu giữ của Trần Văn K được ký hiệu từ (M1 đến M9)

Kết luận giám định số: 106/KL-PC54(CN) ngày 12 tháng 01 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận 12 mẫu vật (ký hiệu từ M1 đến M12) thu giữ của Nguyễn Văn C gửi tới giám định có kết quả như sau:

- 05 (năm) mẫu vật (M1, M8, M9, M10, M11) gửi tới giám định đều là pháo nổ, khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ.

- 04 (bốn) mẫu vật (M2, M3, M4, M7) gửi tới giám định đều là dây cháychậm (tự chế)

- 03 (ba) mẫu vật (M5, M6, M12) gửi tới giám định đều là thuốc pháo nổ (tự chế)

Kết luận giám định số: 103/KL-PC54 (CN) ngày 12 tháng 01 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận 09 mẫu vật (ký hiệu từ M1 đến M9) thu giữ của Trần Văn Kh giử tới giám định có kết quả như sau:

- 07 (bảy) mẫu vật (M1, M2, M3, M4, M5, M6, M7) gửi tới giám định đều là pháo nổ, khi bị kích thích (hoặc đốt) có gây tiếng nổ.

- Mẫu vật ký hiệu M8 gửi tới giám định là dây cháy chậm (tự chế)

- Mẫu vật ký hiệu M9 gửi tới giám định là thuốc pháo nổ (tự chế)

Cáo trạng số: 17/CT-VKSQH ngày 17 tháng 4 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Sản xuất hàng cấm” theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay Nguyễn Văn C khai nhận: Khoảng tháng 12 năm 2016 C gặp một người đàn ông không quen biết, quê ở tỉnh Bình Định làm nghề lái xe thường xuyên chở hàng sang Trung Quốc bán, qua trò chuyện C biết người này có thuốc pháo bán, cho nên C đã mua với người này khoảng 02 kg thuốc pháo nổ với giá 400.000đ đưa về làm pháo nổ đốt vào dịp tết nguyên đán 2017 và bán kiếm lời, số thuốc còn lại C cất dấu trong nhà.

Đầu tháng 12 năm 2017 Nguyễn Văn C bán nợ cho Trần Văn K 0,8 kg thuốc pháo và 43,5 mét dây cháy chậm với giá 1.470.000đ, trong thời gian này C cũng tiến hành sản xuất pháo nổ để đốt và bán vào dịp tết nguyên đán 2018.

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05 tháng 01 năm 2018 Nguyễn Văn C đang bán cho Hoàng Văn V một tràng pháo nổ với giá 1.000.000đ tại nhà của C thì bị lực lượng tuần tra Công an huyện Quỳ Hợp phát hiện bắt quả tang và thu giữ tạigường ngủ, trong phòng khách nhà của Nguyễn Văn C gồm một túi nilon màu đen bên trong có một tràng pháo nổ có khối lượng 2,65g và số tiền 1.000.000đ

Nguyễn Văn C thừa nhận toàn bộ hành vi sản xuất pháo nổ bán cho Hoàng Văn V thì bị phát hiện và bắt giữ như bản cáo trạng của Viện kiển sát nhân dân huyện Quỳ Hợp truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên tội danh, pháp luật áp dụng như đã truy tố và đề nghị áp dụng các điều luật và xử phạt bị cáo

Nguyễn Văn C với mức án như sau:

Áp dụng điểm c khoản 1 điều 190, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 điều51, điều 65 của Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C từ 12 đến 15 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng về tội “sản xuất hàng cấm”

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng vụ án

Tịch thu sung công quỹ số tiền 1.000.000đ

Đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền từ 20.000.000đ đến25.000.000đ đối với bị cáo.

Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo trước khi Hội đồng xét xử sơ thẩm nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Hợp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về chức năng, thẩmquyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đầy đủ, đúng theo quy định của pháp luật.

[2]Những chứng cứ xác định có tội:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ Cơ quan điều tra đã thu thập được tại hồ sơ đối chiếu lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay đúng như bản cáo trạng đã nêu.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, cụ thể vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 05 tháng 01 năm 2018

Nguyễn Văn C đang bán cho Hoàng Văn V một tràng pháo nổ với giá 1.000.000đ tại nhà của C thì bị lực lượng tuần tra Công an huyện Quỳ Hợp phát hiện bắt quả tang và thu giữ tại gường ngủ, trong phòng khách nhà của Nguyễn Văn C gồm một túi nilon màu đen bên trong có một tràng pháo nổ có khối lượng 2,65g và số tiền 1.000.000đ, qua khám xét khẩn cấp tại nhà ở của Nguyễn Văn C đã thu giữ thêm 7,05 kg pháo nổ, 41,15 mét dây cháy chậm có khối lượng 165,585g; 173,2g thuốc pháo nổ; 4,1 kg vỏ pháo.

Căn cứ kết luận giám định số: 106/KL-PC54(CN) ngày 12 tháng 01 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An thì đã có đủ cơ sở để kết luận Nguyễn Văn C phạm tội “Sản xuất hàng cấm” tội được quy định tại điểm c khoản 1 điều 190 Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]Tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự;

Hành vi sản xuất, buôn bán và đốt pháo nổ những năm trước đây đã gây ra hàng ngàn vụ tai nạn, cháy nhà, chết người hoặc gây thương tật suất đời, ảnhhưởng đến trật tự an ninh, tổn thất về kinh tế, ô nhiễm môi trường gây ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội cho nên, Thủ tướng chính phủ đã ra Chỉ thị số406-TTG ngày 08 tháng 8 năm 1994 về việc cấm sản xuất, buôn bán  và đốt pháo nổ, mọi hành vi sản xuất, buôn bán và đốt pháo nổ đều vi phạm vào điều 190 của Bộ luật hình sự năm 2015 cần phải được xử lý nghiêm minh.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi bị bắt bị cáo có thái độ ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn và thừa nhận hành vi sản xuất phảo nổ để bán kiếm lời và dùng đốt trong ngày tết nguyên đán, bị cáo sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng bố được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất, Huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng nhất, mẹ bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 cần được áp dụng cho bị cáo.

[4] Xét vật chứng vụ án gồm: 9,7 kg pháo nổ; 104 đoạn dây cháy chậm dài 41,15 mét dây cháy chậm có khối lượng 165,585g; 173,2g thuốc pháo; 4,1 kg vỏ pháo và 1.000.000đ tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam thu giữ của Nguyễn Văn C.

- 04 kg pháo nổ; 03 đoạn dây cháy chậm dài 4,82 m có khối lượng 10,580g; 70,395g thuốc pháo nổ thu của Trần Văn K.

Số vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, số tiền tạm gửi tại tài khoản số: 3949.0.9042237.00000 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Quỳ Hợp

Các vật chứng khác gồm: 06 thanh tre có nhiều kích cỡ, 06 chiếc dùi, 06 ống nhựa, 09 thanh gỗ có nhiều kích cỡ, 01 thùng catton, 01 con dao nem, 01 con dao nhỏ, 01 thất gỗ, 01 chiếc kìm. Số vật chứng này hiện nay được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.

Các vật chứng trên đây gồm pháo nổ, thuốc pháo nổ. dây cháy chậm và các công cụ khác phục vụ cho việc sản xuất pháo nổ thu giữ của Nguyễn Văn C và Trần Văn K, là những vật chứng cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cho nên cần tuyên tịch thu để tiêu huỷ. Số tiền 1.000.000đ do Nguyễn Văn C bán pháo nổ cho Hoàng Văn V mà có cho nên cần tuyên tịch thu để nộp vào ngân sách nhà nước

[5] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 4, Điều 190 Bộ luật hình sự thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên toà cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập, điều kiện kinh tế khó khăn, do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Đối với người bán thuốc pháo cho Nguyễn Văn C, do không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể nên không có căn cứ để xác minh cho nên không xem xét.

Đối với Trần Văn K là người mua thuốc pháo, dây cháy chậm với NguyễnVăn C đưa về sản xuất pháo nổ nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Hợp đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là thoả đáng, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với Hoàng Văn V là người mua pháo nổ với bị cáo nhưng số lượng ít, chỉ cần nhắc nhở, răn đe giáo dục là phù hợp.

[7]Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội“Sản xuất hàng cấm”

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 190; điểm s, Khoản 1, Điều 51; khoản 2 điều 51, điều 65 của Bộ luật hình sự 2015

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 15 (Mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo.Thời gian thử thách 30 (ba mươi ) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho chính quyền UBND xã M, huyện Q, tỉnh Nghệ An quản lý giáo dục trong thời gian thử thách,

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thì áp dụng theo hướng dẫn tại khoản 1 điều 69 Luật Thi hành án hình sự.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 BLTTHS năm 2015;

Tịch thu tiêu huỷ gồm: 13,7 kg pháo nổ; 107 đoạn dây cháy chậm, dài 46 mét có khối lượng 175,165g; 243,595g thuốc pháo; 4,1 kg vỏ pháo.

Số vật chứng nêu trên hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An

Các vật chứng khác gồm: 06 thanh tre có nhiều kích cỡ, 06 chiếc dùi, 06 ống nhựa, 09 thanh gỗ có nhiều kích cỡ, 01 thùng catton, 01 con dao nem, 01 con dao nhỏ, 01 thất gỗ, 01 chiếc kìm.

Số vật chứng này hiện nay được bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An.

Tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) Số tiền tạm gửi tại tài khoản số: 3949.0.9042237.00000 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Quỳ Hợp, tỉnh Nghệ An

(Chi tiết vật chứng mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Quỳ Hợp và Chi cục THA dân sự huyện Quỳ Hợp, lập ngày 18 tháng 4 năm 2018)

Về án phí 

Áp dụng điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điều 23 Nghị quyết 326/2006/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội; Buộc Nguyễn Văn C chịu án phí HSST: 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo và người có quyền và nghĩa vụ liên quan. Báo cho bị cáo và người có quyền và nghĩa vụ liên quan biết có quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án hôm nay là ngày 29/5/2018. Đối với người vắng mặt có quyền

kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

506
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HSST ngày 29/05/2018 về tội sản xuất hàng cấm

Số hiệu:20/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳ Hợp - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về