Bản án 20/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 20/2018/HS-ST NGÀY 20/03/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 20 tháng 3 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 06/2018/HSST ngày 31 tháng 01 năm 2018, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2018/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 3 năm 2018 đối với:

Bị cáo Nguyễn Tiến Ng, sinh năm 1987; nơi sinh, đăng ký thường trú và nơi ở: Thôn L, xã N, huyện Q, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; học vấn: 9/12; con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1956 và bà: Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1965; vợ: Phạm Thị D, sinh năm 1989; con: Có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/9/2010 Công an huyện Q xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc (đã được xóa tiền sự); bị tạm giữ từ ngày 10/11/2017, chuyển tạm giam ngày 16/11/2017, hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Q, tỉnh B (có mặt).

Người chứng kiến

- Ông Đoàn Văn Tr, sinh năm 1963

Địa chỉ: Tổ 9, thị trấn A, huyện Q, tỉnh B

- Ông Vũ Quốc M, sinh năm 1968

Địa chỉ: Tổ 10, thị trấn A, huyện Q, tỉnh B

(Đều vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:  Hồi 09 giờ 00 phút ngày 10/11/2017, tại khu vực tổ 9, thị trấn A, huyện Q, tỉnh B, tổ công tác Công an huyện Q kết hợp với Công an thị trấn A phát hiện Nguyễn Tiến Ng có biểu hiện  tàng trữ trái phép chất ma túy. Kiểm tra người Nguyễn Tiến Ng thu giữ tại túi áo khoác bên trái Ng đang mặc 03 gói nhỏ có đặc điểm: Bên ngoài được gói bằng giấy trắng có dòng kẻ, bên trong là chất bột màu trắng dạng cục, Ng khai là ma túy vừa mua với giá 300.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Công an đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của Nguyễn Tiến Ng không thu giữ tài sản, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội.

Tại  bản  kết  luận  giám  định  430/KLGĐ-PC54  ngày  10/11/2017  của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh B kết luận:

- Mẫu gửi giám định là ma túy, loại Heroin có trọng lượng 0, 3567 gam (Không phẩy ba nghìn năm trăm sáu mươi bẩy gam). Heroin STT: 20, Danh mục I, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ.

Tại phiên tòa bị cáo khai: Do nghiện ma túy nên khoảng 08 giờ ngày 10/11/2017 Ng đi bộ từ nhà đến khu vực cây xăng thuộc thôn X, xã Â, huyện Q rồi đi vào ngõ nhỏ cạnh cây xăng gặp và mua của một người đàn ông khoảng 50 tuổi không quen biết 300.000 đồng được 03 gói ma túy. Ng bỏ 03 gói ma túy vào túi áo khoác bên trái rồi đi bộ đến thị trấn A mục đích tìm mua xilanh để sử dụng, khi đến tổ 9, thị trấn A thì bị phát hiện bắt quả tang.

Bản cáo trạng số 11/KSĐT ngày 29/01/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh B truy tố Nguyễn Tiến Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Tiến Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249, Điều 50, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Áp dụng  điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu để tiêu hủy toàn bộ vật chứng là heroin thu được của bị cáo trong phong bì niêm phong hoàn mẫu vật sau giám định. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nói lời sau cùng, bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiền hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận do nghiện ma túy nên bị cáo đã đi mua ma túy về sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt. Bị cáo đã đủ tuổi và có năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và được chứng minh bằng biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản niêm phong vật chứng do Công an huyện Q lập ngày 10/11/2017, lời khai của người chứng kiến, bản kết luận giám định cùng toàn bộ các tài liệu thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Do đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 09 giờ 00 phút ngày 10/11/2017, tại khu vực Tổ 9, thị trấn A, huyện Q, tỉnh B, Nguyễn Tiến Ng đã có hành vi cất giấu tại túi áo khoác bên trái Ng đang mặc 03 gói ma túy loại heroin, có trọng lượng 0,3567 gam (Không phẩy ba nghìn năm trăm sáu mươi bẩy gam) nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, đã bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố và kết luận bị cáo phạm tội “Tàng trử  trái phép chất ma túy” theo  điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ.

[3] Về áp dụng pháp luật: Thời điểm truy tố, xét xử bị cáo Bộ luật hình sự năm 2015 đã có hiệu lực pháp luật, theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 thì tội tàng trữ trái phép chất ma túy có khung hình phạt nhẹ hơn so với Bộ luật hình sự năm 1999, do đó để đảm bảo tính có lợi cho bị cáo, Hội đồng xét xử áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 để xét xử đối với bị cáo về tội danh và quyết định hình phạt; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử lý vật chứng quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm 1999 không có gì khác so với Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, do đó áp dụng quy định của Bộ luật hình sự và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 là phù hợp với quy định tại Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Xét tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, tệ nạn ma túy đang là mối quan tâm, nhức nhối của toàn xã hội, ma túy làm ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe, làm suy thoái giống nòi, là căn nguyên phát sinh các loại tội phạm khác, bị cáo hiểu được tác hại của ma túy nhưng do nghiện và không quyết tâm từ bỏ ma túy dẫn đến phạm tội; bị cáo có nhân thân xấu, năm 2010 đã bị xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, vì vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật với mức án tương xứng hành vi bị cáo đã gây ra và việc cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong thời gian chấp hành hình phạt là cần thiết để cải tạo, giáo dục bị cáo riêng và có tác dụng trong đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung, như mức án đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành thật khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ “ thành  khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

[6] Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, như vậy bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Do không có căn cứ xác định người đã bán ma túy cho bị cáo nên cơ quan điều tra không có cơ sở để điều tra xử lý.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ của bị cáo 03 gói chứa chất bột màu trắng dạng cục, kết quả giám định kết luận là ma túy loại heroin và hoàn trả mẫu vật sau giám định, cần tịch thu để tiêu hủy là phù hợp quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

[10] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy

- Áp dụng khoản 1 Điều 249, Điều 50, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt  bị cáo Nguyễn Tiến Ng 01 (Một) năm 06 (Sáu)tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 11 năm 2017.

- Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu để tiêu hủy 01 gói ma túy loại heroin được niêm phong trong phong bì hoàn mẫu vật sau giám định ghi số 430/KLGĐ trong chứa 0,3377 gam (Không phẩy ba nghìn ba trăm bảy mươi bảy gam) mẫu gửi giám định và bao gói, như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh B ngày 31/01/2018.

- Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,  Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Tiến Ng phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

301
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2018/HS-ST ngày 20/03/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:20/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về