Bản án 20/2017/ST-HNGĐ ngày 22/12/2017 về yêu cầu ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A – TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 20/2017/ST-HNGĐ NGÀY 22/12/2017 VỀ YÊU CẦU LY HÔN

Ngày 22/12/2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án thụ lý số 75/2017/TLST-HNGĐ ngày 11/10/2017 về việc “Yêu cầu ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2017/QĐXXST-HNGĐ  ngày 06/12/2017 giữa các đương sự:

 Nguyên đơn: Chị Đinh Thị H Sinh năm: 1982

Trú tại: Thôn 5 xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An – Có mặt

Bị đơn:  Anh Lê Thanh P – Sinh năm: 1983

HKTT: Thôn 05, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An - Vắng mặt 

Người làm chứng: Bà Nguyễn Thị C Sinh năm: 1950

Trú tại: Thôn 5, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An – Có mặt

NHẬN THẤY

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/02/2017, những lời khai tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay chị Đinh Thị H trình bày:

Chị Đinh Thị H và anh Lê Thanh P kết hôn vào ngày 20/11/2014, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng về sống với bố mẹ chồng tại thôn 05, xã T Sơn, huyện A, tỉnh Nghệ An, khoảng một năm sau vợ chồng chuyển ra thuê phòng trọ ở riêng tại Thôn 5, xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An để tiện việc đi làm của cả 2 vợ chồng. Trong quá trình chung sống anh P không tu chí làm ăn, thường xuyên đánh bạc, chị H đã nhiều lần khuyên bảo nhưng anh P không sửa đổi nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau do bất đồng quan điểm. Đến cuối năm 2016, vợ chồng mâu thuẫn, nguyên nhân là anh P vẫn không tu chí làm ăn, cuộc sống vợ chồng bất đồng quan điểm nên chị H đã đưa con đi Hà Nội ăn tết năm 2017, còn anh P về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại thông 5, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An. Ra tết năm 2017 chị H đưa con về sinh sống tại nhà bố mẹ đẻ tại thôn 5, xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An. Qúa trình vợ chồng sống ly thân vợ chồng đã bàn bạc nhiều lần nhưng không đoàn tụ được nên vợ chồng đã thống nhất viết đơn ly hôn chờ Tòa án giải quyết. Hiện tại Vợ chồng không còn tình cảm với nhau nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Lê Văn B – Sinh ngày 14/02/2015. Từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con ở với chị H. Nay ly hôn chị H có nguyện vọng được tiếp tục nuôi con và không yêu cầu anh P phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ: Vợ chồng không có tài sản chung và không nợ ai nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

- Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà Nguyễn Thị C là mẹ đẻ của anh Lê Thanh P khai:

Anh Lê Thanh P là con đẻ bà C, chị Đinh Thị H (là vợ của anh P) là con dâu bà C. Vợ chồng anh P chị H kết hôn năm 2014, sau khi kết hôn vợ chồng sống chung cùng gia đình bà tại thôn 5, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An được khoảng 1 năm thì vợ chồng ra thuê trọ sinh sống làm ăn tại thôn 5, xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An. Qúa trình vợ chồng anh P chị H sinh sống từ năm 2014 đến năm 2016 nhưng chị H chỉ ăn tết cùng gia đình chồng được năm đầu tiên sau khi kết hôn, còn các tết năm còn lại chị H chưa lần nào về ăn tết cùng chồng tại gia đình bà. Đến cuối năm 2016, những ngày giáp tết năm 2017, gia đình bà mới biết được P đang sống 1 mình tại xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An, còn H thì đưa con đi Hà Nội ăn tết. Nên gia đình đã gọi anh P về ăn tết cùng gia đình tại thôn 5, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An. Ra tết năm 2017 H đưa con về nhà ngoại tại xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An sinh sống, gia đình và anh P có bàn bạc chị Hà về nhà xin lỗi bố mẹ chồng và chồng nhưng chị H không chịu nhận lỗi nên vợ chồng anh P và chị H đã thống nhất ly hôn, chị H đã viết đơn ly hôn và anh P đã ký vào đơn xin ly hôn chờ Tòa án giải quyết. Đơn ly hôn anh P ký là vào tháng 1/2017 (AL), anh P ở nhà chờ Tòa án gọi giải quyết nhưng chờ mãi không thấy Tòa án gọi giải quyết nên đến tháng 4/2017 anh P đi làm ăn ở miền nam. Từ khi đi đến nay anh P chưa về lần nào, gia đình bà C và anh P chỉ liên lạc qua điện thoại với nhau, do anh P đi làm thuê theo công trình nên thường xuyên thay đổi chỗ làm chỗ ở, không có nơi cư trú cố định. Mặc dù bà C có hỏi địa chỉ cụ thể của anh P ở đâu nhưng anh P không cho biết cụ thể mà chỉ nói là đang làm ăn ở miền nam. Sau khi Tòa án gửi các văn bản tố tụng liên quan đến việc giải quyết ly hôn cho anh P, bà C đã nhận thay anh P và đã liên lạc cho anh P biết về việc Tòa án đang giải quyết ly hôn. Tuy nhiên, do hiện nay anh P mới đi làm ăn xa, không có điều kiện về để giải quyết ly hôn nên anh P cũng đồng ý ly hôn với chị H và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh P.

Về con chung: Vợ chồng anh P, chị H có 1 con chung là cháu Lê Văn B, từ khi vợ chồng ly thân đến nay cháu đang ở với mẹ. Nay vợ chồng ly hôn, ý của anh P cũng có nguyện vọng nuôi con, nhưng nay hiện nay anh P đang đi làm xa nên đồng ý để chị H nuôi con.

- Tại phiên Tòa đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An phát biểu ý kiến về vụ án và về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Về việc tuân theo pháp luật: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã thực hiện đúng trình tự tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện nghiêm túc quyền và nghĩa vụ của mình trong suốt quá trình điều tra, hòa giải và xét xử; bị đơn đã được tống đạt và thông báo các văn bản tố tụng của Tòa án hợp lệ nhưng vắng mặt nên căn cứ điểm b, khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228 xét xử vắng mặt anh P;  Nhìn chung vụ án đã được thụ lý, điều tra và xét xử đúng trình tự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56, điều 81, điều 82 và điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đinh Thị H được ly hôn với anh Lê Thanh P; Giao con chung Lê Văn B sinh ngày 14/02/2015 cho chị Đinh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn phần cấp dưỡng nuôi con cho anh Lê Thanh P; Về án phí: Chị Đinh Thị H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

XÉT THẤY

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án anh Lê Thanh P không có mặt tại địa phương, Tòa án đã giao các văn bản tố tụng cho bà Nguyễn Thị C nhận và bà C đã báo lại cho anh Lê Thanh P biết. Mặc dù anh P đã biết các văn bản tố tụng liên quan đến yêu cầu ly hôn của chị Đinh Thị H với anh Phú do Tòa án tống đạt nhưng anh P vì lý do công việc cũng như điều kiện khó khăn không về được và không cung cấp địa chỉ nơi cư trú và nơi làm việc của anh P. Nhưng qua lời khai của người làm chứng là bà Nguyễn Thị C (Là mẹ đẻ anh P) thì anh P cũng đồng ý ly hôn với chị Đinh Thị H và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt anh P. Mặc dù Tòa án đã tống đạt hợp lệ 2 lần nhưng anh Lê Thanh P vẫn không đến Tòa án để giải quyết ly hôn với chị Đinh Thị H. Nên Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Nghệ An đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Lê Thanh P theo quy định tại khoản điểm b khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về nội dung vụ án: Chị Đinh Thị H và anh Lê Thanh P kết hôn với nhau vào năm 2014 trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An. Hôn nhân hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

Sau khi kết hôn thì chị Đinh Thị H và anh Lê Thanh P về chung sống với bố mẹ chồng tại thôn 05, xã T, huyện A, tỉnh Nghệ An. Khoảng 1 năm sau khi kết hôn, vợ chồng chị Hà anh P thuê phòng trọ sinh sống tại thôn 5, xã Đ, huyện A, tỉnh Nghệ An. Qúa trình chung sống vợ chồng chị H và anh P bất đồng quan điểm nên vợ chồng sống ly thân từ tháng 12/2016 đến nay. Qúa trình sống ly thân anh P và chị H đã bàn bạc để trở lại đoàn tụ nhưng không đoàn tụ được nên tháng 2/2017 vợ chồng chị H và anh P thống nhất ly hôn chờ Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong thời gian chờ Tòa án giải quyết, tháng 4/2017 anh P đã đi làm ăn tại miền nam, trước khi đi anh P không bàn bạc và báo cho chị H biết nên hiện tại chị H không biết anh P đi đâu, đi thời gian nào. Trong quá trình giải quyết vụ án bà Nguyễn Thị C (Là mẹ đẻ anh P) cho biết: “Anh P ở nhà chờ Tòa án giải quyết ly hôn nhưng chờ mãi không thấy Tòa án gọi giải quyết nên đến tháng 4/2017 anh P đi làm ăn ở miền nam”. Trước lúc đi anh P có dặn bà C: “Nếu Tòa án báo gọi giải quyết ly hôn thì đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với chị H vắng mặt anh P”. Hiện tại anh P đã biết Tòa án đang giải quyết ly hôn với anh P nhưng do đi làm xa, không có điều kiện về giải quyết vụ án nên anh P cũng đồng ý ly hôn với chị H và đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh P.

Việc anh Lê Thanh P đi làm ăn không bàn bạc, thông báo với chị Đinh Thị H, anh P đã biết Tòa án đang giải quyết ly hôn giữa anh P và chị H nhưng  không về giải quyết vụ án và không cung cấp địa chỉ nơi cư trú và làm việc của mình là nhằm gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án và cố tình giấu địa chỉ nên Toà án xét xử vụ án theo thủ tục chung do Bộ luật tố tụng dân sự quy định.

Xét thấy mục đích của hôn nhân vợ chồng là cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình bền vững trên cơ sở cùng nhau tiến bộ nhưng anh P và chị H đã bỏ mặc nhau, không yêu thương, quý trọng, chăm sóc và giúp đỡ nhau, tình nghĩa vợ chồng không còn. Do đó hôn nhân giữa chị Đinh Thị H và anh Lê Thanh P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Đinh Thị H là phù hợp với khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56 Luật hôn nhân gia đình và cũng phù hợp với nguyện vọng của anh Lê Thanh P cũng đồng ý ly hôn với chị Đinh Thị H.

Về con chung: Chị Đinh Thị H và anh Lê Thanh P có 1 con chung là Lê Văn B - Sinh ngày 14/02/2015 từ khi ly thân đến nay con ở với chị H, hiện tại anh P đang đi làm ăn xa, không có mặt tại địa phương nên cần tiếp tục giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng con là phù hợp với khoản 2 điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình và cũng phù hợp với nguyện vọng của chị H và anh P. Chị H không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn phần cấp dưỡng nuôi con cho anh Lê Thanh P.

Về tài sản chung và nợ: Chị Đinh Thị H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

Về án phí: Chị Đinh Thị H phải nộp án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 điều 51, khoản 1 điều 56, điều 81, điều 82 và điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm b, khoản 2 điều 227; khoản 3 điều 228; khoản 4 điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử;

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Đinh Thị H và anh Lê Thanh P.

- Về nuôi con chung: Giao con chung Lê Văn B – Sinh ngày 14/02/2015 cho chị Đinh Thị H trực tiếp nuôi dưỡng. Tạm hoãn phần cấp dưỡng nuôi con cho anh Lê Thanh P.

Sau khi ly hôn, anh Lê thanh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con  mà không ai được cản trở.

- Về án phí: Chị Đinh Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn (Đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0005405 ngày 11/10/2017 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A).

Nguyên đơn có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày bản sao bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

483
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 20/2017/ST-HNGĐ ngày 22/12/2017 về yêu cầu ly hôn

Số hiệu:20/2017/ST-HNGĐ
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Anh Sơn - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/12/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về