TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 201/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 208/2020/TLST-HS ngày 24/8/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 217/2020/QĐXXST-HS ngày 07/9/2020, đối với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Anh T; Sinh năm 1988; Giới tính; Nam; HKTT: Xã Thanh Cao, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hóa: 12/12; Dân tộc: Mường; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Bùi VT (Đã chết); Con bà: Trần TT; Gia đình bị cáo có 05 chị em, bị cáo là con út; Vợ: Lê TT; Bị cáo có 02 con (Con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2017); Trích lục tiền án, tiền sự: Không;
Nhân thân: Ngày 21/12/2012, Công an huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt vi phạm hành chính 1.000.000 đồng đối với Bùi Anh T về hành vi: “Đánh bạc”.
Danh bản số: 325, lập ngày 18/5/2020, tại Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/5/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội.
(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 03 giờ 20 phút ngày 12/5/2020, tổ công tác Công an phường Đại Mỗ làm nhiệm vụ tại ngõ 274 đường Đại Mỗ, thuộc tổ dân phố Chợ, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, phát hiện Bùi Anh T có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra phát hiện trong bàn tay phải của Bùi Anh T có 01 gói giấy, bên trong có 01 gói nilông chứa các hạt tinh thể màu trắng. Tại chỗ T khai nhận đó là ma túy đá, T mang theo để sử dụng. Tổ công tác Công an phường Đại Mỗ đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và dẫn giải T cùng vật chứng đến bàn giao Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ.
Vật chứng thu giữ của T, gồm có: 01 gói nilông, bên trong chứa các tinh thể trong suốt nghi là ma túy đá; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, lắp sim số 0987.816.989; 01 ví da màu nâu bên trong có 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Anh T và 1.000.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Quá trình điều tra xác định: Qua ứng dụng Zalo, Bùi Anh T quen một người phụ nữ tên Phạm Khánh Vy (không rõ nhân thân lai lịch, sử dụng tài khoản Zalo “Kiều Ly Phạm”). Sau một thời gian nhắn tin trên Zalo, Vy bảo T mua ma túy “đá” rồi mang đến ngõ 274, đường Đại Mỗ, thuộc tổ dân phố Chợ, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để T và Vy cùng sử dụng. T khai: Do tò mò muốn sử dụng ma túy nên khoảng 02 giờ ngày 12/5/2020, T gọi điện cho một người đàn ông tên là Nghĩa (quen biết ngoài xã hội, không biết nhân thân lai lịch, sử dụng số điện thoại 0946094528) hỏi mua 300.000 đồng tiền ma túy “đá”. Nghĩa đồng ý bán và bảo T đến khu nhà trọ ở ngõ 32, đường Phùng Khoang, phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội để giao dịch mua bán. T đồng ý và thuê xe Grab đến nhà trọ theo chỉ dẫn của Nghĩa. Khi đến nơi T không vào nhà mà đứng bên ngoài rồi đưa qua khe cửa cho Nghĩa số tiền 300.000 đồng. Nghĩa nhận tiền và đưa lại cho T 01 gói nilông chứa ma túy “đá”. T bọc gói ma túy vào tờ giấy ăn rồi cất giấu vào túi quần phía sau bên phải, đi xe ôm Grab đến ngõ 274, đường Đại Mỗ. Khi đến đầu ngõ, T xuống xe, lấy túi ma túy đá ra cầm ở tay phải và đi bộ vào trong ngõ với mục đích sử dụng ma túy cùng Vy nhưng chưa gặp thì bị tổ công tác Công an phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm kiểm tra, bắt quả tang và thu giữ vật chứng.
Tại Kết luận giám định số: 3783/KLGĐ-PC09 ngày 20/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội, kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 01 gói nilông là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng: 0,285 gam./.” Quá trình điều tra, Bùi Anh T đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Đối với người đàn ông tên Nghĩa bán ma túy cho T và người phụ nữ tên Vy rủ T mua ma túy để sử dụng chung (như T khai), quá trình điều tra không xác định được nhân thân lai lịch, nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm không có căn cứ để điều tra và xử lý.
Đối với 01 ví da màu nâu bên trong có 01 chứng minh nhân dân mang tên Bùi Anh T và 1.000.000 đồng (Bằng chữ: Một triệu đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, qua xác minh, xác định là tài sản cá nhân của T, nên ngày 08/7/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận Nam Từ Liêm đã ra Quyết định xử lý đồ vật, tài liệu số: 74, bằng hình thức trả cho chị Lê TT (Sinh năm: 1993; HKTT: Xã Thanh Cao, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình), là vợ T.
Bản Cáo trạng số: 210/CT-VKSNTL ngày 20/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, truy tố bị cáo Bùi Anh T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Điều luật quy định:
“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;” Tại phiên tòa:
Bị cáo T thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, xác nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là đúng với hành vi mà bị cáo đã thực hiện và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo T và kết luận: Giữ quan điểm như cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo phạm tội lần đầu, không có tiền án, tiền sự, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo T từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Không; Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn tại các mép dán có chữ ký niêm phong của Bùi Anh T và giám định viên, là vật cấm tàng trữ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, gắn số thuê bao: 0987.816.989, là phương tiện phạm tội của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với kết luận giám định cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 03 giờ 20 phút ngày 12/5/2020, tại ngõ 274, đường Đại Mỗ, thuộc tổ dân phố Chợ, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, Bùi Anh T có hành vi tàng trữ trái phép 0,285 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng, thì bị tổ công tác Công an phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, kiểm tra phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.
Hành vi nêu trên của bị cáo Bùi Anh T đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đã truy tố đối với bị cáo về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự, là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, phù hợp với pháp luật.
[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm những quy định của Nhà nước về chế độ quản lý các chất ma túy, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine, với lỗi cố ý trực tiếp, nhận thức rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý cất giấu ma túy để sử dụng. Vì vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.
[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân, bị cáo 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính năm 2012, bị cáo là người dân tộc thiểu số,không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[4] Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, được thể hiện ở mục đích phạm tội, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ 0,285gam Methamphetamine, căn cứ vào nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, cần phải áp dụng mức hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[5] Về đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đối với việc giải quyết vụ án: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, là phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội bị cáo gây ra.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Không.
[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn tại các mép dán có chữ ký niêm phong của Bùi Anh và giám định viên, là vật cấm tàng trữ; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, gắn số thuê bao: 0987.816.989, là phương tiện phạm tội của bị cáo, như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, là có căn cứ.
[9] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[10] Về án phí: Bị cáo T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Anh T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điểm s Khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Bùi Anh T 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2020.
Căn cứ vào Điểm a, c Khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Khoản 1, Điểm a Khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự;
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn tại các mép dán có chữ ký niêm phong của Bùi Anh T và giám định viên; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen, gắn số thuê bao: 0987.816.989 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng số: 213, ngày 24/8/2020, tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội).
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136, Khoản 1 Điều 331, Khoản 1 Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 201/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 201/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về