Bản án 201/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐIỆN BIÊN, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 201/2020/HS-ST NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 213/2020/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 09 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn T, tên gọi khác: Không; sinh năm 1990, tại Điện Biên; Nơi cư trú: Bản P, xã P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Lào; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lò Văn P, đã chết và con bà: Lò Thị M, sinh năm 1971; có vợ: Lò Thị B, sinh năm 1989, bị cáo chưa có con; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án. Bản án số 81/HSST ngày 24/02/2017 của Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt Lò Văn T 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; nhân thân: Đã bị kết án, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 02/07/2020, tạm giam từ ngày 04/7/2020 đến nay bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lò Thị Thúy A – Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Điện Biên (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 02/07/2020 Lò Văn T đi bộ từ nhà ở Bản P, xã P, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên đến khu vực sông Nậm Núa cuối Bản P mục đích tìm mua Methamphetamine để sử dụng và bán kiếm lời. Đến nơi, T gặp và mua được 01 túi nilon màu xanh, miệng túi có nẹp bấm cố định bên trong có các viên Methamphetamine màu hồng và màu xanh của một người đàn ông dân tộc Lào khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) với giá 1.000.000 đồng. T cầm túi xem qua nhưng không đếm. Sau đó người đàn ông đi đâu không rõ, còn T lấy 03 viên Methamphetamine màu hồng ra sử dụng hết bằng hình thức hút. Số còn lại T cất vào túi quần bên phải đang mặc và đi bộ về nhà với dự định nếu có người hỏi mua sẽ bán với giá 10.000 đồng một viên Methamphetamine. Hồi 21 giờ cùng ngày, khi Lò Văn T đi bộ về đến khu vực giữa Bản P, xã P, huyện Điện Biên thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng Pa Thơm phối hợp với Phòng phòng chống ma túy và tội phạm Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên kiểm tra phát hiện, bắt quả tang và thu giữ tại túi quần bên phải T đang mặc 01 túi nilon màu xanh, miệng túi có nẹp bấm cố định, bên trong có chứa 122 viên Methamphetamine (120 viên màu hồng và 02 viên màu xanh) có tổng khối lượng 12,76 gam.

Tại phiên tòa bị cáo Lò Văn T đã khai nhận lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Mọi lời khai hoàn toàn phù hợp với nội dung vụ án và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong và xác định khối lượng lấy mẫu giám định, kết luận giám định, kết luận điều tra....

Kết luận giám định số 665/GĐ-PC09 ngày 11/07/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên kết luận: Mẫu viên nén màu hồng và mẫu viên nén màu xanh trích ra từ vật chứng thu giữ của Lò Văn T gửi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine; Khối lượng vật chứng thu giữ của Lò Văn T là 12,76 gam:

Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 323, Mục IIC, Danh mục II, Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018. Không hoàn lại đối tượng giám định.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về kết luận Giám định nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 213/CT - VKSHĐB ngày 25/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 2 Điều 251; s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo mức án từ 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng đến 10 ( mười) năm tù về tội "Mua bán trái phép chất ma túy"; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 12,76 gam Methamphetamine, trích mẫu 0,39 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 12,37 gam là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành. Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có giấy chứng nhận hộ nghèo. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo có mặt tại phiên tòa nhất trí với bản Cáo trạng của Viện kiểm sát, Quyết định đưa vụ án ra xét xử của Tòa án, cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật không bị oan sai, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng cho bị cáo theo điểm i khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; Điều 50; điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự, xem xét đến nguyên nhân phạm tội, hoàn cảnh gia đình bị cáo để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung và miễn án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát xét thấy luận cứ bào chữa của người bào chữa phù hợp với luận tội của viện kiểm sát theo quy định của pháp luật. Viện kiểm sát không có ý kiến gì tranh luận.

Bị cáo không bổ sung gì vào bài bào chữa và hoàn toàn nhất trí với quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Điện Biên, không có ý kiến gì tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[1]. Hành vi của bị cáo: Khoảng 20 giờ, ngày 02/07/2020, Lò Văn T đến khu vực sông Nậm Núa cuối Bản P để tìm mua ma túy về sử dụng bà bán lẻ kiếm lời, tại đây T đã gặp và mua được của một người đàn ông dân tộc Lào khoảng 40 tuổi (không biết tên, địa chỉ) 01 gói Methamphetamine với giá 1.000.000 đồng, T đã sử dụng 03 viên, số ma túy còn lại đã bị phát hiện bắt quả tang thu giữ toàn bộ vật chứng trong đó có 122 viên Mathamphetamine, có khối lượng 12,76 gam Methamphetamine. Căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sơ vụ án, lời khai tại phiên tòa thì có đủ căn cứ kết tội bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm i khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Về tính chất, mức độ gây nguy hiểm cho xã hội thấy rằng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo đã tiếp tay cho những người khác chuyên buôn bán các chất ma túy ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, làm ảnh hưởng tới trật tự trị an, an toàn trong xã hội trên địa bàn huyện Điện Biên nói riêng cũng như địa bàn tỉnh Điện Biên nói chung. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, tính chất hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình gây ra. Nên bị cáo phải bị xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[3]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo sinh ra và lớn lên tại xã P, huyện Điện Biên, được học hết lớp 5/12 thì nghỉ học. Năm 2017 kết hôn với chị Lò Thị B nhưng chưa có con chung. Bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2014 cho đến nay. Ngày 24/02/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Điện Biên xử phạt Lò Văn T 30 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 81/HSST ngày 24/02/2017; Bị cáo phạm tội mới trong thời gian chưa được xóa án tích lại phạm tội do cố ý, nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Song xét hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, nguồn thu chính từ làm ruộng, bản thân bị cáo sử dụng ma túy. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng các hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về hành vi của bị cáo bị truy tố và các quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng huyện Điện Biên và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng: Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng đã được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến gì, không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật và được chấp nhận.

[6]. Nguồn gốc số Heroine thu giữ của bị cáo, bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc Lào khoảng 40 tuổi, do bị cáo không biết tên và địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở điều tra làm rõ. Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xử lý.

[7]. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy 12,76 gam Methamphetamine, trích mẫu 0,39 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 12,37 gam là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

[8]. Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và Giấy chứng nhận hộ nghèo, tại phiên tòa bị cáo xin được miễn án phí HSST. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm i Khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Xử phạt bị cáo Lò Văn T 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 02/07/2020.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 12,76 gam Methamphetamine, trích mẫu 0,39 gam gửi giám định không hoàn lại, vật chứng còn lại 12,37 gam là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành.

(Vật chứng của vụ án đã được cơ quan Điều tra Công an huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên theo Biên bản bản giao nhận vật chứng ngày 26/8/2020).

4. Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có giấy chứng nhận hộ nghèo. Căn cứ Điều 136 BLTTHS và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016. Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/09/2020)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2020/HS-ST ngày 16/09/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:201/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Điện Biên - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về