Bản án 201/2020/DS-ST ngày 27/04/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN PHÚ NHUẬN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 201/2020/DS-ST NGÀY 27/04/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 27 tháng 4 năm 2020 tại phòng xử án của Toà án nhân dân quận Phú Nhuận, xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 592/2019/TLST-DS ngày 15/8/2019 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 10/2020/QĐXXST-DS ngày 03 tháng 3 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2020/QĐST-DS ngày 27/3/2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP TT

Trụ sở: Đường N, Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh

Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn: Bà Nguyễn Bích Thanh Trà, địa chỉ Đường N, Phường T, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền số 834/2019/UQ-TTT ngày 10/7/2019).

(Có đơn xin vắng mặt)

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Nhật H, sinh năm 1984

Thường trú: Đường H, Phường C, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt không lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện nộp ngày 09/7/2019 và các lời khai tại phiên tòa, đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Nguyễn Bích Thanh Trà trình bày:

Ngày 03/11/2011, bà Phạm Thị Nhật H ký Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng theo mẫu của Ngân hàng TMCP TT (sau đây gọi là Ngân hàng). Theo đó ngày 12/11/2011 Ngân hàng chấp nhận phát hành thẻ tín dụng hạn mức 15.000.000 đồng, số thẻ 472074-4849. Sau khi được cấp thẻ tín dụng nêu trên, bà H đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền 94.694.354 đồng. Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà H đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 100.270.000 đồng. (Thứ tự thanh toán căn cứ theo Điều 20 của bản Điều kiện và Điều khoản phát hành và sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng). Từ ngày 25/04/2016 bà H không thanh toán bất kỳ khoản nợ nào theo thỏa thuận. Qua nhiều lần làm việc, nhắc nhở nhưng bà H vẫn không có thiện chí trả nợ. Do bà H vi phạm nghĩa vụ thanh toán (Điều 2 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng), ngày 26/6/2016 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn (Điều 23 của bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng).

Nay Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà H trả số tiền còn nợ từ việc sử dụng thẻ tín dụng nêu trên là 20.534.900 đồng (Hai mươi triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn chín trăm đồng) gồm nợ gốc là 8.190.290 đồng, nợ lãi quá hạn là 12.344.610 đồng tạm tính đến ngày 27/4/2020. Ngoài ra kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 12/11/2011.

* Bị đơn bà Phạm Thị Nhật H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ triệu tập để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm nhưng bà H vắng mặt không có lý do.

Tại phiên tòa, đại diện nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu trong đơn khởi kiện và không bổ sung chứng cứ nào khác.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Phú Nhuận tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử, Thư ký tại phiên tòa đã tuân theo đúng các quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng trong vụ án: Nguyên đơn từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, Điều 71 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay vắng mặt không lý do, chưa thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Xét Hợp đồng sử dụng thẻ tín dụng, bảng sao kê lịch sử thanh toán thẻ tín dụng của bà Phạm Thị Nhật H, có cơ sở xác định bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán nợ. Căn cứ Điều 471, Điều 474 của Bộ luật dân sự 2015 và khoản 2 Điều 91, Điều 95 của Luật các Tổ chức tín dụng 2010, chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Theo đơn khởi kiện, Ngân hàng khởi kiện bà H đối với việc sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng thì đây là quan hệ tranh chấp hợp đồng tín dụng. Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận.

[2] Về thủ tục xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng:

Theo kết quả xác minh ngày 27/8/2019 của Công an Phường 9, quận Phú Nhuận, bà Phạm Thị Nhật H có đăng ký thường trú tại địa chỉ số Đường H, Phường C, Quận P, Thành phố Hồ Chí Minh. Thực tế bà H đã không còn cư trú tại số nhà trên, không rõ nơi cư trú mới. Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết hợp lệ triệu tập bà H để lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa sơ thẩm lần thứ nhất ngày 27/3/2020 và phiên tòa hôm nay nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do.

Ngoài ra, ngày 13/4/2020 đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là bà Nguyễn Bích Thanh Trà có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa hôm nay. Căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng.

[3] Về nội dung vụ án:

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa xét xử sơ thẩm hôm nay, bà H không có mặt để trình bày lời khai và cung cấp tài liệu, chứng cứ mặc dù Tòa án đã tiến hành triệu tập hợp lệ. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

Theo Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng bà H đã ký ngày 12/11/2011, nội dung đề nghị Ngân hàng cấp thẻ tín dụng và Ngân hàng phê duyệt hạn mức 15.000.000 đồng. Bà H cũng xác nhận đã đọc và đồng ý bị ràng buộc nghĩa vụ bởi bản Điều khoản và Điều kiện phát hành sử dụng thẻ tín dụng của Ngân hàng là Đơn vị phát hành thẻ (sau đây gọi là bản Điều khoản). Giấy đề nghị cấp thẻ nêu trên phù hợp với quy định tại điểm d khoản 3 Điều 98 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, có hiệu lực pháp luật.

Ngày 25/4/2016 bà H không thanh toán bất kỳ khoản nợ nào cho Ngân hàng là bà H đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán. Theo Điều 2, Điều 8 và Điều 23 của bản Điều khoản, ngày 26/6//2016 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn với số nợ là 8.190.290 đồng.

Theo Thông báo số 113/TB-TTT ngày 04/7/2011 của Ngân hàng, lãi suất thẻ tín dụng là 2,15%/tháng và cho đến nay Ngân hàng không có thay đổi mức lãi suất này. Tại Điều 23 bản Điều khoản áp dụng mức lãi suất quá hạn là 150% mức lãi suất công bố áp dụng tại thời điểm hiện tại. Ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất quá hạn là 2,15%/tháng x 150% = 3,225%/tháng. Căn cứ Điều 1 của Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng nhà nước, lãi suất Ngân hàng áp dụng là phù hợp với quy định pháp luật.

Xét yêu cầu của Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà H trả toàn bộ số tiền 20.534.900 đồng (Hai mươi triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn chín trăm đồng) gồm nợ gốc là 8.190.290 đồng, nợ lãi quá hạn là 12.344.610 đồng tạm tính đến ngày 27/4/2020. Ngoài ra kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 12/11/2011. Căn cứ khoản 2 Điều 91, Điều 95 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010, khoản 2 Điều 13, Điều 11 của Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 và Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và điểm a khoản 2 Điều 19, khoản 2 Điều 22 của Quyết định số 20/2007/QĐ-NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, khi bà H không thanh toán đầy đủ, đúng hạn theo thỏa thuận Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ tín dụng nêu trên, chuyển sang nợ quá hạn và tính lãi quá hạn là phù hợp với quy định pháp luật. Đồng thời căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.026.745 đồng.

Ngân hàng không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được trả lại số tiền tạm ứng án phí là 441.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số 0042079 ngày 14/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ khoản 2 Điều 91, Điều 95 và điểm d khoản 3 Điều 98 của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010;

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 13 của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao

- Căn cứ Điều 11, khoản 2 Điều 13 của Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 và Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước;

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 19, khoản 2 Điều 22 của Quyết định số 20/2007/QĐ- NHNN ngày 15/5/2007 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước;

- Căn cứ Điều 1 của Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước;

- Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014),

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP TT Bà Phạm Thị Nhật H có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng TMCP TT số tiền 20.534.900 đồng (Hai mươi triệu năm trăm ba mươi bốn nghìn chín trăm đồng) gồm nợ gốc là 8.190.290 đồng, nợ lãi quá hạn là 12.344.610 đồng tạm tính đến ngày 27/4/2020.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bà Phạm Thị Nhật H còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quá hạn thỏa thuận tại Giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng ngày 12/11/2011.

2. Án phí dân sự sơ thẩm Bà Phạm Thị Nhật H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 1.026.745 đồng (Một triệu không trăm hai mươi sáu nghìn bảy trăm bốn mươi lăm đồng).

Ngân hàng TMCP TT không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, được trả lại số tiền tạm ứng án phí là 441.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số 0042079 ngày 14/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Phú Nhuận.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Ngân hàng TMCP TT, bà Phạm Thị Nhật H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

287
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 201/2020/DS-ST ngày 27/04/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:201/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Phú Nhuận - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về