TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 201/2018/HS-ST NGÀY 22/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 22 tháng 8 năm 2018, tại Tru sơ Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm , thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 204/2018/TLST-HS ngày 03/8/2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 253/2018/QĐXXST-HS ngày 10/8/2018 đối với bị cáo:
Phạm Văn T, sinh năm 1994; Đăng ký nhân khẩu thường trú: T, T, T, T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn L và bà Lê Thị T.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị bắt quả tang ngày 03/4/2018, tạm giữ từ ngày 03/4/2018 đến ngày 12/4/2018, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú - Có mặt tại phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22h ngày 02/4/2018, Phạm Văn T đi bộ ra cổng làng Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội nhờ một người đàn ông (không rõ nhân thân lai lịch) làm nghề xe ôm mua hộ 300.000 đồng tiền mua ma túy đá, thỏa thuận tiền công là 50.000 đồng. Sau khi nhận tiền người đàn ông này hẹn T đến khoảng hai tiếng sau đến cuối ngõ 20 đường Đình Thôn, phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội lấy ma túy đá ở dưới viên gạch lát vỉa hè. Khoảng 23h55’ ngày 02/4/2018, T điều khiển xe máy Honda Wave RS màu đỏ biển kiểm soát: 36P6-8042 đến vị trí trên thì tìm được 01 túi nilon đựng ma túy đá bên ngoài bọc băng dính màu đen. T giấu ma túy vào túi quần phía trước bên phải và điều khiển xe máy đi về đến trước cửa nhà số 6, ngõ 20, đường Đình Thôn, thuộc phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội lúc này khoảng 0h15’ ngày 03/4/2018 thì bị tổ công tác đại đội 2, tiểu đoàn 1, trung đoàn Cảnh sát cơ độngCông an thành phố Hà Nội phát hiện và bắt giữ. Vật chứng thu giữ:
- 01 xe máy Honda Wave BKS 36P6-8042;
- 01 túi nilon bên trong có chứa các tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá ngoài bọc băng dính màu đen.
Tại kết luận giám định số 3414/KLGĐ-PC54 ngày 11 tháng 4 năm 2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hà Nội kết luận: Tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon thu giữ của Phạm Văn T là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,208 gam.
Về người mua hộ ma túy cho T, không rõ nhân thân lai lịch nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm không có căn cứ để xác minh xử lý.
Về xe máy Honda Wave BKS 36P6-8042, qua xác minh là tài sản hợp pháp của anh Lê Kỳ Ngọc (sinh năm 1990, HKTT: Thôn Kỳ Anh, Quảng Ngọc, Quảng Xương, Thanh Hóa). Anh Ngọc cho T mượn xe không biết T sử dụng vào mục đích mua ma túy để sử dụng. Ngày 29/6/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm tiến hành trao trả cho anh Lê Kỳ Ngọc 01 xe máy Honda Wave BKS 36P6-8042, anh Ngọc nhận lại tài sản không có yêu cầu gì về dân sự.
Tại Cơ quan điều tra, Phạm Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Tại bản cáo trạng số 208/CT-VKS ngày 17/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm thì Phạm Văn T bị truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015.
Tại phiên toà, bị cáo T khai nhận hành vi của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Phạm Văn T đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù, xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 0h15’ ngày 03/4/2018, tại trước cửa nhà số 6, ngõ 20, đường Đình Thôn thuộc phường Mỹ Đình 1, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, Phạm Văn T có hành vi tàng trữ phép 0,208 gam ma túy loại Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị tổ công tác thuộc đại đội 2, tiểu đoàn 1, Trung đoàn Cảnh sát cơ động, Công an thành phố Hà Nội bắt quả tang cùng vật chứng. Hành vi của bị cáo T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015. Như cáo trạng của Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ phù hợp pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc sử dụng ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để sử dụng. Do đó, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo cũng như răn đe phòng ngừa chung. Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo khai báo thành khẩn, thái độ ăn năn hối cải, nhân thân chưa có tiền án tiền sự, ông ngoại bị cáo là người có công với cách mạng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn phạt tiền cho bị cáo.
[5] Về vật chứng vụ án: Số ma túy đã thu giữ cho tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí và có quyền kháng cáo theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: - Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điều 38; Điều 47; Điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015;
- Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;
- Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt Phạm Văn T 12(Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án (được trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày từ ngày 03/4/2018 đến ngày 12/4/2018).
* Vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy, bên ngoài có chữ kí của Phạm Văn T và giám định viên.
Theo biên bản giao nhận vật chứng số 166 ngày 18/7/2018 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
* Án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 201/2018/HS-ST ngày 22/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 201/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/08/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về